- Không phản đối tư tưởng hợp nhất các trường đại học như đề xuất của ông Trần Đức Cảnh, nhưng ông Lê Đông Phương - Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu giáo dục ĐH và nghề nghiệp, Viện Khoa học giáo dục Việt Nam - cho rằng cần nhắc lại cách sử dụng ngân sách Nhà nước là hiệu quả và khả thi hơn trong bối cảnh Việt Nam.

>> Cần giảm 1/3 số lượng trường đại học công

Thay vì sát nhập, nên cân nhắc lại cách sử dụng tiền

Ông nhận xét thế nào về ý tưởng sáp nhập một số trường đại học công của Việt Nam để hiệu quả hoá các nguồn lực của giáo dục đại học, như đề xuất của ông Trần Đức Cảnh?

- Một vấn đề lớn hiện nay nhìn về bề ngoài dường như chúng ta có quá nhiều trường đại học. Tôi đồng ý ở chỗ các trường của ta qui mô còn nhỏ, tản mát, và dường như không hiệu quả. Nghe không sai nhưng thực ra hiệu quả không đơn thuần là hiệu quả nội bộ của nhà trường. Nhìn rộng hơn VN vẫn là nước thu nhập trung bình thấp, có nghĩa rằng người dân thu nhập vẫn thấp thì hệ thống trường dàn đều hiệu quả xã hội sẽ tốt hơn.

  {keywords}

- Vấn đề của chúng ta là đầu tư hết sức đồng đều. Nhà nước đang bỏ ra bỏ ra từ 5 – 10 triệu đồng/ SV/ năm. Hệ thống này bao quát khoảng 3 triệu SV.Ảnh: Văn Chung


Bản thân tôi làm nghiên cứu giáo dục không phản đối tư tưởng hợp nhất các trường lại. Bởi vì các trường đại học VN hiện nay tuy rằng bắt đầu đi theo hướng đa ngành đa nghề đa lĩnh vực nhưng thực chất vẫn còn mong manh lắm. Nếu theo khung phân loại hiện nay có 24 nhóm ngành thì rất nhiều trường chỉ có 2 nhóm ngành.

Đúng là với những trường này chi phí quản lý sẽ bị đội lên bởi vì một trường có 5 – 10 nhóm ngành cũng chỉ cần một lực lượng quản lý như vậy.

Gom lại hiệu quả kinh tế của các nhà trường sẽ tăng lên. Chúng tôi đã từng nghiên cứu từ cách đây 20 năm, khi mới bắt đầu đi vào đổi mới giáo dục đào tạo, thời điểm đó quy mô nhà trường 10 nghìn SV là tốt nhất. Nhưng thời điểm này quy mô nhà trường để đạt hiệu quả kinh tế thực sự phải đạt tầm từ 20 nghìn SV trở lên.

Đúng là chúng ta không có nhiều trường ở quy mô đó lắm. Vì vậy thuần tuý về khía cạnh kinh tế việc hợp nhất hay sáp nhập các trường với nhau để trở thành trường lớn hơn, có tính tổng hợp hơn đúng là sẽ có hiệu quả kinh tế.

Nhưng khi đó việc tiếp cận trở nên có vấn đề. Khả năng trường lớn lên thì tương lai trường nằm ở những thành phố, thị xã lớn. Có nghĩa rằng, hình như đâu đó con em nông dân người nghèo phải đi học xa hơn. Đó là điều chúng ta nên cân nhắc kỹ. Ngoài ra, còn phải quan tâm tới những vấn đề gì khi xét tới đặc điểm của giáo dục đại học Việt Nam, thưa ông?

- Đây là đề xuất có ý tưởng, có xuất phát điểm từ bối cảnh của nền giáo dục Hoa Kỳ, nhưng bối cảnh của giáo dục đại học Việt Nam và đại học Mỹ khác nhau rất nhiều. Giáo dục hiện đại của Mỹ có hơn 200 năm, còn giáo dục hiện đại của ta thực chất mới có hơn 100 năm nếu như chấp nhận lấy đại học Đông Dương năm 1907 như một mốc xuất phát. Chưa kể thực sự sự phát triển của giáo dục đại học Việt Nam đến những năm 60 mới đi theo chiều hướng mở rộng ra.

Sự xuất phát của hai nền giáo dục khác nhau nên quy chiếu nền giáo dục đại học Việt Nam vào Mỹ là một điều nói chung phải thận trọng.

Cái khác thứ hai là bản chất văn hóa của giáo dục đại học. Giáo dục đại học Mỹ như hiện nay có một nét đặc biệt trên thế giới vì tính tự do của họ rất lớn. Mỹ vốn có truyền thống là một dân tộc non trẻ hình thành trong cuộc đấu tranh giữa các thế lực đi đô hộ khác nhau, nên họ tìm cách rũ bỏ tàn dư của các quốc gia đô hộ như Pháp, Anh, Tây Ban Nha... Trong khi đó giáo dục hiện đại Việt Nam được hình thành trong chế độ đô hộ của Pháp. Và kể cả khi đã thoát khỏi sự lệ thuộc vào Nhà nước Pháp nhưng ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp thông qua mô hình của Liên Xô vẫn còn để lại cho đến tận bây giờ.

Và trong nền giáo dục mang màu sắc văn hóa Pháp đó thì tính bao cấp và chỉ đạo của Trung ương rất lớn. Đây là điều không phải dễ mà bỏ được, vì đây còn là nét văn hoá. Ngay bản thân nước Pháp muốn cải cách, muốn đi theo con đường mở rộng tự do trong giáo dục đại học cũng không làm nổi. Cách đây vài năm, quốc hội Pháp thông qua luật tự chủ đại học, ngày hôm sau toàn bộ giáo sư, sinh viên xuống đường biểu tình vì không muốn tự chủ.

Như vậy trên đường biểu diễn tính tự chủ đại học, một bên khẳng định tự chủ là quyền tất yếu không ai có quyền tước bỏ, một bên thì “chúng tôi không thích” thì Việt Nam ngả về phía của Pháp.

Thứ hai, cái mà người ta nói là giáo dục đại học Hoa Kỳ thực chất là từ toàn bộ hệ thống giáo dục sau trung học, bao gồm cả đào tạo nghề và trung cấp. Còn khái niệm giáo dục đại học ở Việt Nam lại chỉ “cư trú” xung quanh các cơ sở đào tạo 3 năm và 4 năm – CĐ và ĐH. Còn trung cấp chúng ta rất giống mô hình Pháp và Liên Xô – tách ra ngoài. Vì vậy mà sự so sánh lại khập khiễng nữa. Trong thời gian gần đây cũng bắt đầu có xu thế muốn nhìn nhận tổng hợp hơn, nhưng vẫn chưa vượt qua rào cản tư duy của người Việt Nam tách bạch khu vực nghề, chuyên nghiệp riêng và cái gọi là đại học và cao đẳng riêng. Cho nên cấu trúc của các hệ thống không thể đối chiếu ngang hang một cách đơn giản.

{keywords}

Mỗi sinh viên đóng thêm 5 – 10 triệu đồng/ năm. Cộng lại vẫn là quá ít. Tất nhiên ở Việt Nam chi phí có thể thấp, nhưng có những thứ chi phí như nguyên vật liệu, học liệu... vẫn là chi phí quốc tế, không hề ít. Ảnh: Văn Chung

Giả sử có sự sát nhập trường công, thì theo ông, vấn đề lớn nhất phải đối mặt là gì?

- Đó là việc hiện nay các trường ĐH, CĐ của Việt Nam được nhận kinh phí từ rất nhiều nguồn khác nhau. Bộ GD-ĐT có 5% tổng ngân sách giáo dục và quản lý tới 1⁄4 số trường đại học và cao đẳng,khoảng 100 trường. Có nghĩa 3⁄4 số trường được tỉnh, các bộ ban ngành khác cấp kinh phí. Gom các trường lại lại một chỗ nghe thì dễ, nhưng tiền sẽ không chạy theo như vậy. Rủi ro hơn, có khi tiền lại ít đi.

Đó là lý do từ lâu chúng ta có chủ trương xoá bỏ bộ chủ quản nhưng không thực hiện được nhiều, vì các trường cũng không muốn rời khỏi “bầu sữa mẹ”. Bởi vì nếu chuyển về Bộ GD-ĐT, họ thấy tương lai chắc chắn kinh phí được cấp không được nhiều. Ví dụ như vừa mới đây trường đại học Nông nghiệp Hà Nội vừa chuyển thành Học viện Nông nghiệp Việt Nam và chuyển trở lại trực thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Đó là bằng chứng rất rõ ràng về khả năng đầu tư.

Cái lý của sự tồn tại của các cơ sở giáo dục đại học Việt Nam dưới sự quản lý điều hành của các bộ ngành là vì quản lý Nhà nước của chúng ta mang rất nhiều tính chuyên môn, không đơn thuần là quản lý hành chính. Và lực lượng làm quản lý chuyên môn hỗ trợ cho các bộ ban ngành chính là các trường đại học và các viện nghiên cứu trực thuộc bộ. Do đó, bản thân các bộ cũng không muốn mất các trường đó vì họ thực hiện một số nhiệm vụ chuyên môn mà không có lực lượng ngay trong tay cũng không làm được. Tách ra lại phải đi hợp đồng, đặt hàng... sẽ khác.

Trong khi đó, ở Hoa Kỳ, các trường đại học công trực thuộc trực tiếp chính phủ bang. Các bộ của các bang không quản lý chuyên môn, mà chỉ quả lý hành chính nhà nước. Chính vì vậy họ không có nhu cầu giữ các trường, các viện bên trong.

Như vậy, vấn đề không chỉ ở bối cảnh văn khoá mà còn nằm ở khung cảnh chính trị, hành chính của mỗi quốc gia.

Vậy thì, với bối cảnh của Việt Nam, cần hiệu quả các nguồn lực đầu tư cho giáo dục đại học như thế nào?

- Vấn đề của chúng ta là đầu tư hết sức đồng đều. Nhà nước đang bỏ ra bỏ ra từ 5 – 10 triệu đồng/ SV/ năm. Hệ thống này bao quát khoảng 3 triệu SV.

Mỗi sinh viên đóng thêm 5 – 10 triệu đồng/ năm. Cộng lại vẫn là quá ít. Tất nhiên ở Việt Nam chi phí có thể thấp, nhưng có những thứ chi phí như nguyên vật liệu, học liệu... vẫn là chi phí quốc tế, không hề ít.

Do đó, với mức đầu tư này này khó nói chúng ta đạt mức chất lượng nào. Còn thực ra nếu hiệu quả thì về mặt kinh tế, có khi Việt Nam... có hiệu quả nhất thế giới vì không nước nào đầu tư vỏn vẹn có 2 nghìn USD lại được một cử nhân.

Vì vậy, nếu muốn nâng cao chất lượng thực chất cần cân nhắc lại cách sử dụng ngân sách Nhà nước. Thay vì đầu tư cho tất cả sinh viên, chỉ nên chọn một số chương trình, ngành đào tạo thực sự cần mà thị trường không điều tiết được như toán lý hoá, những ngành thuần tuý lý thuyết, hoặc lĩnh vực nông nghiệp và chế biến sản phẩm nông nghiệp, những ngành rất cơ bản, rất cần cho xã hội Việt Nam trong tương lai xa. Thay vì 5, 10 triệu đồng như hiện nay hãy đổ hẳn, ví dụ như, 50 triệu đồng/ SV/ năm. Kể cả trường tư đào tạo những lĩnh vực này cũng cấp tiền để đảm bảo công bằng xã hội và tạo nhiều sự lựa chọn cho người học và cho cả người sử dụng lao động.

Còn lại, cắt bỏ tất cả những gì thuộc diện “hot” như tài chính, ngân hàng, kế toán... Các em học đóng tiền vào, học xong kiếm tiền xứng đáng, thì tại sao Nhà nước phải đầu tư? Thay vì đổ tiền nuôi 3 triệu SV một lúc Nhà nước chỉ cần nuôi 300 nghìn SV. 90% còn lại để thị trường tự điều tiết và khi đó nó sẽ lập tức cải thiện ngay hiệu quả và chất lượng. Và đồng thời sẽ không còn câu chuyện phàn nàn tại sao thất nghiệp. Còn bây giờ là cứ học đi, chuyện thất nghiệp tính sau vì đằng nào chỉ đóng một khoản không nhiều.

Nếu làm theo cách đó, câu chuyện của giáo dục đại học không phụ thuộc vào bao nhiêu trường, vào việc làm thế nào mà sẽ tự động điều tiết theo cơ chế thị trường.

Cần đẩy mạnh cao đẳng 2 năm

Việc phát triển hệ cao đẳng 2 năm, theo ông, có phải là một giải pháp phù hợp cho giai đoạn tới?

- Tôi rất thích mô hình này của Mỹ. Sau 2 năm, học viên cảm thấy vươn lên được thì học lên thành chương trình đại học 4 năm, nếu cảm thấy đã tích luỹ được một số kiến thức cơ bản có thể đi làm luôn. Đây là điều rất tốt. Đồng thời nếu triển khai mô hình như vậy về mặt xã hội giải quyết được vấn đề rất lớn mà hiện nay ta loay hoay, đó là đáp ứng được nhu cầu ai ai cũng được đi học.

Hệ thống của Mỹ hay ở chỗ hầu hết học sinh tốt nghiệp THPT vào cao đẳng cộng đồng. Nhưng sau 2 năm có 80% tình nguyện rời bỏ vì không đủ khả năng học tiếp. Câu chuyện sàng lọc diễn ra một cách rất tự nguyện.

Ở ta, vì vào thẳng vào đại học nên sinh viên cố bằng được cho xong 4 năm lấy bằng rồi ‘tính tiếp’.

Nếu như sau 2 năm có thể cấp một bằng hay chứng chỉ gì đó để các em vào đời là rất tốt. Nhưng sẽ đòi hỏi gộp hệ thống trung cấp, trung cấp nghề, cao đẳng, cao đẳng nghề và đại học vào chung một hệ thống tạo thành một tuyến liên tục để vận hành dễ dàng. Người học sẽ không gặp rào cản bất hợp lý về mặt hành chính, kinh tế, địa lý.

Phải đẩy mạnh mô hình cao đẳng cộng đồng. Nhưng cao đẳng cộng đồng phải vận hành theo đúng nghĩa của nó.

Mô hình trường cao đẳng động đồng đã xuất hiện ở Việt Nam được một thời gian, nhưng không có dấu ấn đặc biệt và hầu như không phát triển thêm từ 6 trường ban đầu. Là một trong những người đưa mô hình này về Việt Nam, ông có thể lý giải tại sao các trường cao đẳng cộng đồng cho đến nay không được như mong muốn?

- Mô hình về Việt Nam đã “hỏng” ngay từ phút đầu tiên, vì các trường cao đẳng cộng đồng này ngay từ đầu đều muốn cấp bằng. Một ý tưởng rất lớn mà chúng tôi cố gắng thuyết phục các nhà trường và cơ quan quản lý là xây dựng các chương trình chuyển tiếp. Có nghĩa là trường cộng đồng có sự đỡ đầu của một trường đại học lớn nào đó, để sau khi sinh viên học 2, 3 năm tại địa phương nếu có đủ sức trường đại học đỡ đầu sẽ tiếp nhận, các em học nốt 1 - 2 năm nữa để lấy bằng của trường đại học đỡ đầu. Điều đó đã không được thực hiện. Người ta mải tập trung vào chương trình cao đẳng 3 năm để cấp bằng, quên mất xây dựng sự liên kết với các trường đại học có uy tín. Một trường gọi là cao đẳng cộng đồng mà mở loạn ra các ngành nghề rồi cấp bằng thì chả khác trường cao đẳng bình thường, mất đi tính cộng đồng của nó.

Xin cảm ơn ông!

  • Chi Mai thực hiện