Nhằm, góp phần nâng cao hiệu quả công tác bảo vệ và phát triển rừng gắn với giảm nghèo bền vững vùng dân tộc thiểu số và miền núi, việc xác định những nguyên nhân, khó khăn và đề xuất các giải pháp chi tiết, cụ thể sẽ giúp Yên Bái tạo việc làm, xóa đói, giảm nghèo cho khu vực nông thôn miền núi, vùng đồng bào dân tộc và thúc đẩy sản xuất lâm nghiệp hiệu quả:

Giải pháp trong chính sách bảo vệ rừng: Hiện nay, tỷ lệ hộ nghèo dân tộc thiểu số là gần 60%, cao gấp gần ba lần tỷ lệ nghèo chung của cả nước, và gấp năm lần tỷ lệ nghèo của nhóm dân tộc thiểu số. Cá biệt có một số dân tộc thiểu số tỷ lệ nghèo tới 90%. Nguyên nhân chủ yếu do thu nhập từ rừng chỉ chiếm khoảng 8,5%, do vậy người dân chưa thể dựa vào rừng để sống.

{keywords}
Nâng cao hơn nữa nhận thức và năng lực của cộng đồng đặc biệt là người dân miền núi, chú ý đến phong tục, tập quán, tri thức bản địa của người dân tộc.

Vì vậy, cần có giải pháp về hỗ trợ phát triển sinh kế: Tổ chức đánh giá, lựa chọn các hoạt động phát triển sinh kế phù hợp; lồng ghép các nguồn vốn từ các chương trình, dự án có liên quan; quan tâm hỗ trợ, giúp đỡ các doanh nghiệp có năng lực đầu tư trồng - chế biến - tiêu thụ sản phẩm nông, lâm sản; khuyến khích sử dụng các nguồn lực sẵn có tại địa phương về tài nguyên, nhân lực, kinh nghiệm bản địa,…; rà soát, bổ sung xây dựng hương ước sát thực với từng cộng đồng để bảo vệ rừng; tăng cường tập huấn, hướng dẫn kỹ thuật để nâng cao năng lực cho cán bộ, người dân; hỗ trợ vốn, thông tin thị trường…; thường xuyên tổ chức đánh giá, rút kinh nghiệm trong quá trình thực hiện.

Trong công tác bảo vệ rừng, phục hồi rừng cũng có vai trò không nhỏ của đồng bào dân tộc thiểu số, những người trực tiếp tham gia trồng rừng, sản xuất lâm nghiệp. Những chủ rừng, người dân, hộ dân, những tổ chức, đơn vị được nhà nước giao đất trồng rừng phải có trách nhiệm, gắn với đó là chính sách bảo vệ, phát triển.

Hàng năm, cần có kế hoạch trồng bao nhiêu hecta rừng, xác định cụ thể, trồng chỗ nào, giao cho chính quyền địa phương phải có trách nhiệm trồng rừng, giám sát. Việc cần thiết là chính sách của Nhà nước để bảo vệ, phát triển rừng gắn với giảm nghèo bền vững vùng dân tộc thiểu số và miền núi phải cụ thể, rõ ràng để người dân ở rừng sống được nhờ rừng, không phá rừng thì công tác bảo vệ rừng và phát triển rừng mới thực sự đạt hiệu quả.

Giải pháp nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về bảo vệ và phát triển rừng: Xây dựng lực lượng kiểm lâm đủ mạnh để thực thi hiệu quả công tác quản lý, bảo vệ và phát triển rừng. Cần rà soát, bổ sung, hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách về quản lý, bảo vệ và phát triển rừng, khắc phục sự chồng chéo, bảo đảm tính đồng bộ, hiệu quả, khả thi; thực hiện các chính sách về chi trả dịch vụ môi trường rừng.

Gắn mục tiêu bảo vệ, phát triển rừng với hỗ trợ phát triển sản xuất, cải thiện đời sống, nâng cao thu nhập, bảo đảm đời sống, việc làm, an sinh xã hội cho người dân địa phương, đồng bào dân tộc miền núi, biên giới, nhất là cho người dân làm nghề rừng. Đẩy mạnh xã hội hoá, có cơ chế, khuyến khích, tạo thuận lợi cho người dân và các thành phần kinh tế cùng tham gia quản lý, bảo vệ và phát triển rừng.

Tăng cường sự phối hợp hiệu quả giữa các bộ, ngành trung ương và địa phương để thực hiện quyết liệt, hiệu quả công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát, xử lý kịp thời, nghiêm minh các hành vi vi phạm pháp luật, thiết lập trật tự, kỷ cương trong công tác quản lý, bảo vệ và phát triển rừng. Chủ động, nâng cao năng lực, xử lý kịp thời, hiệu quả công tác phòng, chống cháy, chữa cháy và sạt lở đất rừng để hạn chế thấp nhất số vụ cháy rừng và thiệt hại do cháy rừng. Quản lý chặt chẽ tình trạng dân di cư tự do tại cả nơi đi và nơi đến.

Xác định rõ công tác quản lý, bảo vệ và phát triển rừng là trách nhiệm của các cấp uỷ, tổ chức đảng, chính quyền và người đứng đầu các cơ quan, tổ chức, địa phương. Các cấp uỷ, tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, đoàn thể nhân dân cần coi đây là nhiệm vụ chính trị thường xuyên; tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tốt các mục tiêu, quan điểm, nhiệm vụ, giải pháp về quản lý, bảo vệ và phát triển rừng đã được xác định trong các nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước có liên quan.

Người đứng đầu cơ quan, tổ chức, địa phương phải chịu trách nhiệm chính đối với các vụ phá rừng, cháy rừng, mất rừng thuộc phạm vi lĩnh vực, địa bàn mình quản lý, hoặc để cho các tổ chức, cá nhân cấp dưới vi phạm các quy định pháp luật về quản lý, bảo vệ và phát triển rừng.

Giải pháp trong tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật: Thứ nhất, tăng cường sự lãnh đạo, quản lý của cấp uỷ đảng, chính quyền đối với các loại hình tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật. Đây vừa là vấn đề nguyên tắc vừa là khâu then chốt để nâng cao chất lượng, hiệu quả các hình thức phổ biến giáo dục pháp luật về công tác bảo vệ rừng. Cấp uỷ Đảng, chính quyền cần xây dựng kế hoạch cho công tác tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật trong mỗi hoạt động của địa phương, hình thành hệ thống chân rết tại các cụm dân cư, thôn, bản.

Thứ hai, trong công tác thực hiện tuyên truyền, phổ biến pháp luật quản lý bảo vệ rừng nói riêng, cán bộ kiểm lâm phải thường xuyên bám sát cơ sở chính quyền để lồng ghép đăng ký thời lượng cho mình tuyên truyền phổ biến pháp luật bảo vệ rừng ở cơ sở, tuyên truyền phổ biến pháp luật phải gắn với phong tục tập quán thôn, bản, với đời sống của nhân dân.

Thứ ba, cần nâng cao hơn nữa nhận thức và năng lực của cộng đồng đặc biệt là người dân miền núi, chú ý đến phong tục, tập quán, tri thức bản địa của người dân tộc. Cụ thể, tổ chức cho 100% các hộ dân tham gia ký cam kết bảo vệ, phòng cháy chữa cháy rừng.

Điều chỉnh nội dung các quy ước, hương ước liên quan đến công tác bảo vệ và phát triển rừng; quy chế xử phạt đối với trường hợp vi phạm lĩnh vực quản lý, bảo vệ rừng cho phù hợp nhằm răn đe, giáo dục nâng cao ý thức, trách nhiệm bảo vệ rừng từ mỗi cá nhân trong cộng đồng dân cư.

Bài: Hữu Khôi - Nhóm PV
Ảnh: Văn Quý - Nhóm PV