“Khó nhất là năm đầu tiên khi các con đi học. Các con chưa được học ngôn ngữ ký hiệu nên gần như không hiểu được sự truyền đạt của thầy cô còn các thầy cô nhiều lúc cũng không biết làm thế nào để con hiểu mình. Công việc dạy học vì vậy nhiều lúc rất mệt mỏi, căng thẳng” – cô Hoàng Thị Thu Hà nói về những khó khăn, áp lực trong công việc ở Trường Phổ thông cơ sở Xã Đàn – ngôi trường dành cho những trẻ em khiếm thính.
Trong căn phòng rộng hơn 10m2, cô giáo trẻ Đào Thị Hồng viết trên bảng từ “hình tròn”, rồi – một cách thành thục, cô ra hiệu gọi học trò lên viết những đồ vật có hình dạng đó vào phía sau. Một cậu bé ngồi ở dãy bàn cuối được chọn dù nhiều cánh tay phía trên giơ lên.
Cậu bé lên bảng, cầm phấn viết 2 chữ “đồng hồ” thẳng thớm, rồi chỉ vào chiếc đồng hồ hình tròn treo trên bức tường cuối lớp để chứng minh cho đáp án của mình. Ở phía dưới, những cánh tay hào hứng của hơn chục đứa trẻ giơ cao như muốn tiếp tục “trò chơi” đang đến giai đoạn cao trào.
Lớp học đầy sôi nổi ấy diễn ra trong sự im lặng. Tất cả những giao tiếp giữa cô Hồng với những đứa học trò của mình chỉ thông qua ngôn ngữ ký hiệu của đôi tay. Đó là một giờ học ngôn ngữ ký hiệu của các học sinh lớp 2B2, Trường Phổ thông cơ sở Xã Đàn (Đống Đa, Hà Nội) – một giờ học vẫn diễn ra hàng ngày của hơn 300 học sinh khuyết tật nơi đây.
Cuộc trò chuyện sau đó giữa chúng tôi và cô Hồng cũng phải có người “phiên dịch”. Cô giáo sinh năm 1990 cũng là người bị khiếm thính bẩm sinh.
Cậu bé lên bảng, cầm phấn viết 2 chữ “đồng hồ” thẳng thớm, rồi chỉ vào chiếc đồng hồ hình tròn treo trên bức tường cuối lớp để chứng minh cho đáp án của mình. Ở phía dưới, những cánh tay hào hứng của hơn chục đứa trẻ giơ cao như muốn tiếp tục “trò chơi” đang đến giai đoạn cao trào.
Lớp học đầy sôi nổi ấy diễn ra trong sự im lặng. Tất cả những giao tiếp giữa cô Hồng với những đứa học trò của mình chỉ thông qua ngôn ngữ ký hiệu của đôi tay. Đó là một giờ học ngôn ngữ ký hiệu của các học sinh lớp 2B2, Trường Phổ thông cơ sở Xã Đàn (Đống Đa, Hà Nội) – một giờ học vẫn diễn ra hàng ngày của hơn 300 học sinh khuyết tật nơi đây.
Cuộc trò chuyện sau đó giữa chúng tôi và cô Hồng cũng phải có người “phiên dịch”. Cô giáo sinh năm 1990 cũng là người bị khiếm thính bẩm sinh.
Cô Hồng quê ở Hà Nội nhưng tốt nghiệp một trường ĐH đặt tận trong Đồng Nai. Cô Hồng cho biết, sau khi tốt nghiệp đại học, một lần, khi được mẹ dẫn tới Trường PTCS Xã Đàn, chứng kiến những khó khăn mà các em học sinh nơi đây gặp phải trong giao tiếp nên cô quyết định xin về trường làm giáo viên dạy ngôn ngữ ký hiệu cho các em.
Sự hạn chế của khả năng nghe nói khiến tất cả những cảm xúc trong câu chuyện thể hiện hết trên khuôn mặt tươi sáng của cô gái trẻ.
Cô nói, vì bản thân cũng là người khuyết tật nên cô có sự đồng cảm rất lớn với những học sinh của trường. Và cũng bởi, cô tin rằng, những trẻ em khiếm thính có rất nhiều khả năng, làm được nhiều công việc khác nhau và sẽ hòa nhập như tất cả những đứa trẻ bình thường khác nếu như được dạy dỗ tốt.
Cuộc trao đổi kết thúc khi cô Hồng hết giờ nghỉ giữa 2 tiết học và vội vã chuẩn bị cho một tiết học khác.
Cuộc trao đổi kết thúc khi cô Hồng hết giờ nghỉ giữa 2 tiết học và vội vã chuẩn bị cho một tiết học khác.
Buổi sáng hôm ấy, cô có tới 4 tiết dạy, ở 4 lớp khác nhau. Cả khối tiểu học có 16 lớp, chỉ có 2 thầy cô dạy ngôn ngữ ký hiệu thay phiên nhau. Nhưng trước khi chia tay, cô Hồng nói, cô sẽ còn gắn bó với ngôi trường này, sẽ tiếp tục dạy các em bằng tất cả nỗ lực của mình.
Bởi lẽ, cô rất thương các em học sinh nơi đây.
Bởi lẽ, cô rất thương các em học sinh nơi đây.
Cô Hoàng Thị Thu Hà đã gắn bó với ngôi trường dành cho những đứa trẻ khiếm thính này từ 24 năm nay. Không biết bao nhiêu đứa trẻ khuyết tật đã được cô chăm sóc và dạy dỗ nhưng khi hỏi cô về công việc đầy áp lực của mình, cô chỉ nói về những đứa trẻ hiện tại. Dường như, chúng chiếm trọn tâm trí của cô.
Cô Hà kể, lớp cô chủ nhiệm có 17 trẻ khuyết tật thì có tới gần 10 cháu có tật phát triển chậm hoặc đa tật. Có cháu bị tăng động, có cháu tự kỷ, có cháu lại bị thiểu năng chậm tiếp thu, có cháu lại bị tim bẩm sinh, dù năm nay đã lên lớp 3 rồi nhưng vẫn chưa thể cầm bút viết được, cô vẫn phải cầm tay để tô từng nét chữ.
Dạy những đứa trẻ bình thường vốn đã không dễ, việc dạy dỗ những đứa trẻ đặc biệt càng khó hơn gấp bội. Ở đây, thay vì học mỗi năm một lớp, các con học 2 năm mỗi lớp. Để học hết tiểu học, các con phải học tới 9 năm.
Cô Hà nói, khó nhất là năm đầu tiên khi các con đi học. Các con chưa được học ngôn ngữ ký hiệu nên gần như không hiểu được sự truyền đạt của thầy cô còn các thầy cô nhiều lúc cũng không biết làm thế nào để con hiểu mình. Công việc dạy học vì vậy nhiều lúc rất mệt mỏi, căng thẳng.
“Có một cháu tên là Yến Chi, suốt học kỳ một học toán phép cộng thì cháu làm được nhưng đến học kỳ 2, học phép trừ thì con không sao làm được, cứ liên tục làm phép trừ thành phép cộng. Suốt cả học kỳ ấy, tôi phải kèm cháu nhưng cháu vẫn không thể làm được. Nhiều khi tâm sự với bố mẹ cháu là cô cảm giác bất lực với Chi, không biết phải làm thế nào. Nhưng rồi đến cuối năm, Chi bỗng nhiên vỡ ra và làm được. Đến nay thì cháu đã tiến bộ rất nhiều” – cô Hà kể.
Cô Hà kể, lớp cô chủ nhiệm có 17 trẻ khuyết tật thì có tới gần 10 cháu có tật phát triển chậm hoặc đa tật. Có cháu bị tăng động, có cháu tự kỷ, có cháu lại bị thiểu năng chậm tiếp thu, có cháu lại bị tim bẩm sinh, dù năm nay đã lên lớp 3 rồi nhưng vẫn chưa thể cầm bút viết được, cô vẫn phải cầm tay để tô từng nét chữ.
Dạy những đứa trẻ bình thường vốn đã không dễ, việc dạy dỗ những đứa trẻ đặc biệt càng khó hơn gấp bội. Ở đây, thay vì học mỗi năm một lớp, các con học 2 năm mỗi lớp. Để học hết tiểu học, các con phải học tới 9 năm.
Cô Hà nói, khó nhất là năm đầu tiên khi các con đi học. Các con chưa được học ngôn ngữ ký hiệu nên gần như không hiểu được sự truyền đạt của thầy cô còn các thầy cô nhiều lúc cũng không biết làm thế nào để con hiểu mình. Công việc dạy học vì vậy nhiều lúc rất mệt mỏi, căng thẳng.
“Có một cháu tên là Yến Chi, suốt học kỳ một học toán phép cộng thì cháu làm được nhưng đến học kỳ 2, học phép trừ thì con không sao làm được, cứ liên tục làm phép trừ thành phép cộng. Suốt cả học kỳ ấy, tôi phải kèm cháu nhưng cháu vẫn không thể làm được. Nhiều khi tâm sự với bố mẹ cháu là cô cảm giác bất lực với Chi, không biết phải làm thế nào. Nhưng rồi đến cuối năm, Chi bỗng nhiên vỡ ra và làm được. Đến nay thì cháu đã tiến bộ rất nhiều” – cô Hà kể.
Những học sinh ở Trường PTCS Xã Đàn. |
Công việc áp lực là thế nên ngoài hành lang của trường luôn có nhiều dãy hoa dù khuôn viên của trường rất chật chội. “Khi nào ức chế, căng thẳng quá, chúng tôi lại ra hành lang ngắm hoa để lấy lại cân bằng” – cô Hà nói.
Nói thêm về những áp lực, căng thẳng tại ngôi trường đặc biệt, cô Vũ Đoàn Tố Nga, chủ nhiệm lớp 5A – lớp học hòa nhập dành cho những tật nhẹ và trẻ bình thường – kể rằng, trong lớp có những bạn không chỉ bị khiếm thính đơn thuần mà còn có các tật khác. “Có những bạn có bệnh tự kỷ hay tăng động thường xuyên đi lại trong lớp, thậm chí chạy ra ngoài hành lang dù đang là giờ học” – cô Nga nói.
“Những lúc như vậy thực sự mình phải chấp nhận vì không thể quát các con được, bởi các con cũng có hiểu đâu và bản thân các con cũng không muốn như thế” – cô Nga nói. “Nhiều cô giáo trẻ mới đầu chưa quen, không biết làm thế nào để giải tỏa được sự ức chế. Có cô chỉ biết lấy tay đấm vào cửa sổ để giải tỏa sau mỗi giờ học. Nhưng rồi lâu dần, công việc cũng tạo cho chúng tôi sự kiên nhẫn và biết cách kiềm chế”.
Việc dạy học các học trò đặc biệt cũng khiến các thầy cô mất thêm nhiều thời gian để chuẩn bị bài bởi mỗi đứa trẻ ấy lại đòi hỏi một cách dạy khác nhau, không đứa trẻ nào giống đứa trẻ nào. Nhiều hôm, phải 6-7 giờ tối, các cô mới rời khỏi trường để về nhà.
Cô Nga nói, để vượt qua được áp lực công việc thì sự hỗ trợ của gia đình đối với các cô có một vai trò quan trọng. “Khi chưa có gia đình thì mọi chuyện đơn giản nhưng khi có gia đình thì không dễ để tạo sự cân bằng. Quan trọng nhất là phải có sự thông cảm từ phía gia đình”.
Điều gì đã khiến những thầy cô nơi đây gắn bó với những đứa trẻ của ngôi trường đặc biệt này với tất cả những áp lực căng thẳng lặp đi lặp lại mỗi ngày ấy? Câu trả lời mà chúng tôi nhận được ở họ là “tình thương”.
“Dạy các con nhiều năm tôi rất thương. Các con tuy mang dị tật nhưng chúng cũng rất tình cảm. Có những hoàn cảnh rất đáng thương. Nhiều lúc họp phụ huynh, tôi tâm sự xong, cả cô giáo và phụ huynh đều rơm rớm nước mắt” – cô Hà nói.
Cô Hà nói rằng, tất cả thầy cô giáo trong trường cô đều như vậy, như một thứ bản năng, khi nhìn thấy các con thì thấy rất thương. Rồi chính tình thương ấy đã giúp các cô có thêm sự nhiệt tình để gần gũi các con hơn. “Tất nhiên cũng có những lúc chúng tôi phải nghiêm khắc với chúng nhưng tình cảm mà chúng tôi dành cho các con là rất thật”.
Cô nói trong hơn 20 năm ở trường, nhiều lúc cô cũng cảm thấy áp lực, nhiều lúc chính mẹ cô đã khuyên cô chuyển sang một trường khác để công việc đỡ vất vả hơn nhưng rồi cuối cùng cô đã quyết định ở lại gắn bó với những đứa trẻ của mình.
“Vui nhất là trong lễ kỷ niệm 40 năm thành lập trường vừa rồi, có học sinh năm đầu tiên mình về trường dạy học vẫn quay lại thăm và tặng quà cô. Món quà rất nhỏ nhưng vô cùng ý nghĩa vì tôi biết được rằng, con nay đã trưởng thành, đã lập gia đình và vẫn còn nhớ tới cô giáo của mình dù đã nhiều chục năm trôi qua”.
“Dạy các con nhiều năm tôi rất thương. Các con tuy mang dị tật nhưng chúng cũng rất tình cảm. Có những hoàn cảnh rất đáng thương. Nhiều lúc họp phụ huynh, tôi tâm sự xong, cả cô giáo và phụ huynh đều rơm rớm nước mắt” – cô Hà nói.
Cô Hà nói rằng, tất cả thầy cô giáo trong trường cô đều như vậy, như một thứ bản năng, khi nhìn thấy các con thì thấy rất thương. Rồi chính tình thương ấy đã giúp các cô có thêm sự nhiệt tình để gần gũi các con hơn. “Tất nhiên cũng có những lúc chúng tôi phải nghiêm khắc với chúng nhưng tình cảm mà chúng tôi dành cho các con là rất thật”.
Cô nói trong hơn 20 năm ở trường, nhiều lúc cô cũng cảm thấy áp lực, nhiều lúc chính mẹ cô đã khuyên cô chuyển sang một trường khác để công việc đỡ vất vả hơn nhưng rồi cuối cùng cô đã quyết định ở lại gắn bó với những đứa trẻ của mình.
“Vui nhất là trong lễ kỷ niệm 40 năm thành lập trường vừa rồi, có học sinh năm đầu tiên mình về trường dạy học vẫn quay lại thăm và tặng quà cô. Món quà rất nhỏ nhưng vô cùng ý nghĩa vì tôi biết được rằng, con nay đã trưởng thành, đã lập gia đình và vẫn còn nhớ tới cô giáo của mình dù đã nhiều chục năm trôi qua”.
Còn cô Nga thì nói rằng, khi dạy những đứa trẻ này tự nhiên sẽ cảm thấy rất yêu chúng. “Khi tiếp xúc mặc dù khó khăn nhưng đôi khi chỉ một bài toán hôm qua con không làm được nhưng nay đã làm được thì đã khiến mình cảm thấy vui lắm rồi. Bởi nhìn thấy công sức của mình lúc đó”
“Các con cũng rất đáng yêu. Càng những bạn khuyết tật càng có mong muốn chia sẻ với cô nhiều hơn. Mặc dù khả năng nói của các con cũng không tốt nhưng cứ mỗi giờ ra chơi, các con lại vây quay mình để nói chuyện. Những lúc như thế là động lực rất lớn để động viên mình”.
“Các con cũng rất đáng yêu. Càng những bạn khuyết tật càng có mong muốn chia sẻ với cô nhiều hơn. Mặc dù khả năng nói của các con cũng không tốt nhưng cứ mỗi giờ ra chơi, các con lại vây quay mình để nói chuyện. Những lúc như thế là động lực rất lớn để động viên mình”.
Thầy Phạm Văn Hoan, hiệu trưởng nhà trường thì nói rằng, các thầy cô nơi đây đều gắn bó với trường bởi một sợi dây tình cảm với học trò. “Tất cả các con học sinh ở đây đều thần tượng các thầy cô. Bạn hãy thử tưởng tượng, mình luôn luôn được trẻ con thần tượng, yêu quý đến từng li từng tí một, cái đó không vật chất nào so sánh được. Các thầy cô đều bị hút vào đây bởi một tình cảm lớn” – thầy Hoan nói.
“Niềm tự hào có thể không nói ra thành lời nhưng ai cũng có nó trong tim dù đâu đó cũng có những lúc thầy cô cảm thấy thiệt thòi. Chuyên đó cũng bình thường thôi” – thầy Hoan tâm sự. Nhưng những lúc ấy, họ lại tìm đến nhau để chia sẻ, động viên nhau để vượt qua khó khăn, áp lực. “Những con người nơi đây họ còn rất yêu thương nhau, bởi ai cũng biết bạn mình rất vất vả. Sự động viên nhau cũng rất đặc biệt, khác với những nơi khác”.
“Niềm tự hào có thể không nói ra thành lời nhưng ai cũng có nó trong tim dù đâu đó cũng có những lúc thầy cô cảm thấy thiệt thòi. Chuyên đó cũng bình thường thôi” – thầy Hoan tâm sự. Nhưng những lúc ấy, họ lại tìm đến nhau để chia sẻ, động viên nhau để vượt qua khó khăn, áp lực. “Những con người nơi đây họ còn rất yêu thương nhau, bởi ai cũng biết bạn mình rất vất vả. Sự động viên nhau cũng rất đặc biệt, khác với những nơi khác”.
Thanh Hùng - Lê Văn