Phước Sơn “đi dễ khó về”
Chúng tôi tìm đến khi anh Thìn trở về đã được hơn 2 tuần lễ, nhưng dường như sự mệt mỏi, hốt hoảng, xen lẫn sự hoang mang vẫn còn hiện hữu trên nét mặt. Lời tâm sự đầu tiên khi biết chúng tôi đến tìm hiểu về chuyến “hồi hương” của anh là: “Thật may mắn! Cuối cùng cũng được trở về với anh em xóm làng, với vợ dại con thơ. Thế mà nhiều lúc nghĩ rằng sẽ vĩnh viễn nằm lại nơi rừng thiêng nước độc”.
Khi lấy lại được sự bình tâm, anh Thìn kể về hành trình đến bãi vàng Phước Sơn và cuộc “đào thoát” có một không hai của anh. Một phần do còn ít nhiều hốt hoảng, phần khác do kỹ năng diễn đạt hạn chế nên dòng tâm sự của anh thường xuyên bị ngắt quãng, thiếu sự mạch lạc.
Niền vui của bé Lô Văn Phong (con trai út của anh Thìn) khi bố trở về |
Vợ chồng anh có 5 đứa con, hầu hết còn thơ dại. Cuộc sống gia đình hết sức khó khăn, bởi thu nhập không có gì hơn ngoài mấy sào ruộng khoán và mấy sào mía nguyên liệu. Đầu tháng 3/2011, tức là sau tết Nguyên Đán khoảng một tháng, vợ chồng Nguyễn Văn Hoan và Lương Thị Oanh ở xóm 11, cùng xã tìm đến nhà rủ anh vào Quảng Nam nhặt đá sỏi, xây dựng đường giao thông với mức thu nhập khá cao, và cho ứng trước 1 triệu đồng.
Nghe bùi tai, nghĩ rằng tranh thủ lúc nông nhàn đi kiếm ít tiền để trang trải cuộc sống, anh Thìn cùng 2 người khác ở gần nhà rời quê hương lên đường theo Nguyễn Văn Hoan đi đến “miền đất hứa”.
Chuyến xe chạy theo hướng Nam, trên xe ngoài 3 người thuộc xã Tiên Kỳ còn có thêm 7 người khác ở xã Đồng Văn (cũng thuộc huyện Tân Kỳ) cùng đi. Xe chạy một ngày, một đêm rồi dừng lại ăn cơm trưa tại Thị trấn Khâm Đức, huyện Phước Sơn, tỉnh Quảng Nam.
Lúc này, anh Thìn và mọi người được bàn giao cho một người chủ khác. Ông chủ mới này nói: “Ai có nhu cầu gọi điện về cho gia đình thì gọi ngay đi, kẻo vào đó không có sóng đâu”. Sau đó, điện thoại của tất cả mọi người bị ông chủ mới này tịch thu.
Hôm sau, mọi người được chở bằng xe máy theo hướng vào rừng. Đi mãi. Đi mãi. Cuối cùng anh và những người cùng đi được đưa đến một bãi khai thác vàng nằm trong chốn rừng sâu chứ không phải đi nhặt đá, làm đường giao thông như lời hứa hẹn ban đầu.
Tại bãi vàng, anh Thìn tính được khoảng trên 100 người tham gia đào đãi vàng. Có những người có “thâm niên” làm ở đây từ 5- 6 năm, còn hầu hết là 2-3 năm. Anh và những người cùng làm ở đây phải làm việc quần quật suốt ngày đêm, kể cả những ngày mưa gió (ở đây thường có mưa lớn).
Chỗ nghỉ được quây bằng những tấm bạt khoảng 7m2 ngay giữa bãi vàng. Bị cắt đứt liên lạc với thế giới bên ngoài, lại làm việc trong điều kiện cực khổ, tiền lương không được nhận, nhiều người đã bỏ trốn. Nhưng do rừng núi hoang vu, lại không thông thạo địa hình nên hầu hết các cuộc “đào thoát” đều không thành công.
Khi biết có người bỏ trốn, bọn chủ bãi vàng liền tung người ra các hướng để tìm kiếm, vây bắt. Bắt được ai, chúng đưa ra đánh đập hết sức dã man để người đó không bao giờ dám nuôi ý định chạy trốn và mặt khác để “thị uy”, ngăn đe những người còn lại.
Có những người bị đánh đập, đâm chém làm tay chân, mặt mũi lở loét, sưng vù nhưng vẫn phải ra bãi làm vàng...
Trước tình cảnh đó, anh Lô Văn Thìn và Lô Văn Khoa (sinh năm 1981, thường trú ở bản Cha Hìa, xã Xiêng My, huyện Tương Dương, Nghệ An) bàn cách trốn thoát. Theo kế hoạch đã vạch, vào lúc đêm khuya, hai người lặng lẽ rời khỏi lán và đi thẳng vào rừng.
Đi 3 ngày 3 đêm, khi mệt leo lên cây ngủ, khi đói dùng dao mang theo chặt gốc cây khủa để ăn. Đến một cái lán hoang của những người khai thác gỗ bỏ lại, hai người mệt lả.
Vẻ mặt lo âu, thất vọng của bà Nguyễn Thị Thu |
Rất may, ở đó sót lại một ít muối cất kỹ trong cái bao bóng, anh Khoa lấy muối hòa nước suối để hai người cùng uống. Lát sau thấy tỉnh hẳn, hai người lại dắt dìu nhau lên đường. Lúc còn ở nhà, anh Thìn là tay thợ săn khá cừ khôi nên có kinh nghiệm trong việc tìm đường đi ở chốn rừng sâu. Nhờ đó, anh tìm thấy được con đường dẫn đến một bản của người Cơ tu. Đói lả, chân dưới đất như quay cuồng, hai người vào nhà dân xin cơm ăn.
Người đàn ông chủ nhà có tên là Sơn Xru nấu cho hai con người lỡ đường một bữa cơm đạm bạc, rồi xin xe tải chạy công trình thủy điện ra thị trấn Khâm Đức. Rồi anh Thìn và anh Khoa tiếp tục dò hỏi và cuốc bộ một ngày đường để đến được một bến xe nằm trên Quốc lộ 1A (không nhớ rõ là bến xe nào). Hai anh lên một chiếc xe chạy đường dài Bắc- Nam, chủ xe là một người Hà Nội.
Chủ xe cho anh Thìn mượn điện thoại gọi về báo cho gia đình biết tin và chuẩn bị tiền, xuống chờ sẵn ở ngã ba Diễn Châu (nơi giao nhau giữa Quốc lộ 1A và 7A ở Nghệ An) để thanh toán tiền xe và đưa anh và anh Khoa về nhà.
Xe về đến Diễn Châu lúc 3h sáng ngày 21/4/2011. Trong tình trạng đau nặng, trí não không thật tỉnh táo, anh Khoa phải theo về nhà anh Thìn ở chừng 10 ngày. Đến ngày 3/5/2011, anh Thìn mới tìm cách thông báo được cho gia đình anh Khoa đến đưa về chăm sóc.
Lúc viết bài này, chúng tôi liên lạc được với anh Lô Văn Kim, anh trai của anh Khoa và được biết so với ngày mới về thì anh Khoa đã khỏe lên chút ít. Nhưng trí não vẫn chưa trở lại bình thường, nhiều lúc tỏ ra hoang mang, lo sợ, khắp người còn đau ê ẩm do bị đánh đập...
Mẹ ngóng tin con vợ ngóng chồng
Việc anh Lô Văn Thìn và Lô Văn Khoa trốn thoát từ một bãi vàng ở huyện Phước Sơn (Quảng Nam) và trở về đoàn tụ cùng gia đình, vợ con là một sự may mắn. Nhưng theo như cách miêu tả của anh Thìn, hẳn có không ít người vợ, người mẹ đang ngày đêm dõi về “miền đất hứa” để ngóng tin chồng, tin con...
Ánh mắt khẩn cầu khi nghĩ về đứa con trai của bà Lô Thị Nhất |
Lúc ấy ông vừa bị đánh đập dã man, tay chân sưng phù. Nguyên nhân là do ông Long tuổi đã cao, sức đã yếu không làm được nhiều, bọn chủ bãi vàng tìm cách gây sự và cho bọn tay chân đánh đập, giờ đây không rõ sống chết ra sao.
Nghe đến đây, bà Nguyễn Thị Thu, vợ ông Long òa khóc nức nở. Bà nói trong tiếng nấc: “Nói đi vào trong đó nhặt đá sỏi, làm đường giao thông nhưng đã gần 2 tháng rồi mà không gọi điện về, gọi thì không liên lạc được. Ông ấy lấy đâu sức lực nữa mà đào đãi vàng hả trời...”.
Nhìn khắp căn nhà nhỏ, xiêu vẹo của chủ nhân, hầu như không có vật gì đáng giá. Bà Thu lại nức nở: “Cũng tại nhà nghèo quá, con cái lại đông, có thằng đang theo học Đại học Kinh tế Huế nên ông ấy phải làm việc vất vả kiếm tiền nuôi con ăn học...”.
Thấy chúng tôi tìm đến nhà và hỏi thăm chuyện con trai mình, bà Lô Thị Nhất không ngăn được những dòng nước mắt.Bà kể: “Thằng Vinh nhà này rất chăm chỉ, chịu khó làm ăn, vì nó biết bố mẹ rất nghèo, anh em lại đông. Đầu năm nó nghe người ta rủ vào Đà Nẵng hay Quảng Nam chi đó làm đường giao thông, thu nhập cao. Nó đi cùng đợt với chú Thìn, chú Long. Từ ngày đi đến giờ, nó chưa một lần gọi điện về nhà. Từ bữa chú Thìn về kể chuyện trong đó, tôi luôn mất ăn mất ngủ, không biết thằng Vinh sống chết thế nào”.
Nói rồi, bà Nhất nắm chặt lấy tay chúng tôi, ánh mắt như cầu khẩn, giọng vỡ òa: “Xin các anh tìm cách giúp đỡ và cứu con tôi với...!”.
Cần sớm vào cuộc
Theo lời anh Thìn, ở chỗ bãi vàng anh làm, người Nghệ An khá đông, chủ yếu là người dân tộc thiểu số thuộc các huyện miền núi cao như Quế Phong, Qùy Hợp, Tương Dương, Con Cuông, Tân Kỳ (riêng xã Tiên Kỳ, huyện Tân Kỳ có đến 9 người).
Và hầu hết những người thuộc xã Tiên Kỳ vào đây đều do vợ chồng Nguyễn Văn Hoan rủ rê. Làm việc với Công an xã Tiên Kỳ, anh Nguyễn Văn Đào (Trưởng Công an xã) cho biết, từ đầu năm 2011 đến nay, toàn xã có hơn 200 người đến đăng ký tạm vắng, nhưng không có ai xin làm thủ tục tạm trú tại tỉnh Quảng Nam.
Anh Lô Văn Thìn chưa hết hoang mang khi kể lại những ngày bị đày đọa ở bãi vàng Phước Sơn |
Điều này có nghĩa là những người ở địa phương đi làm ăn ở Quảng Nam đều không làm thủ tục đăng ký tạm trú, tạm vắng. Hỏi về việc việc một số người địa phương bị lừa vào các bãi vàng trốn thoát trở về, nhận được câu trả lời: “Chúng tôi có nghe nói, nhưng không thấy có ai đến trình báo hoặc làm đơn tố cáo”.
Còn anh La Thanh Hải (Phó Công an xã) cho biết, theo kết quả thăm dò của anh, toàn xã Tiên Kỳ có khoảng 19 người đang làm thuê ở Đà Nẵng và Quảng Nam, có những gia đình có đến 2 người (hai anh em hoặc hai bố con) cùng đi.
Hiện gia đình vẫn chưa có có cách nào để liên lạc được với họ. Và điều đáng lưu ý là hầu hết những người này đều có trình độ thấp, nếu không muốn nói là thất học, kinh tế gia đình hết sức khó khăn nên dễ bị lừa gạt.
Tiến hành xác minh vợ chồng Nguyễn Văn Hoan và Lương Thị Oanh, được biết hai đối tượng này thường trú tại xóm 11, xã Tiên Kỳ. Cả hai thường xuyên đi làm ăn xa, ít tham gia sinh hoạt ở địa phương. Người dân cho biết thêm, từ ngày nghe tin anh Lô Văn Thìn trốn về từ huyện Phước Sơn (Quảng Nam), vợ chồng Nguyễn Văn Hoan rời khỏi nhà và đi đâu không ai hay.
Người dân mảnh đất Tiên Kỳ đang mong mỏi các cơ quan chức năng sớm vào cuộc để nghiêm trị những kẻ lừa đảo, giúp đỡ những con người đáng thương thoát khỏi cảnh bị lừa gạt và đầy đọa chốn “địa ngục trần gian”.
Bùi Công Kiên