Ngày 25/10/2013, Hội nghị Trung ương 8 Khoá XI ban hành Nghị quyết về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Đây là Nghị quyết có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng, thể hiện đường lối, tư duy mới, bước đột phá về sự lãnh đạo của Đảng đối với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
10 năm qua, trong bối cảnh tình hình thế giới và khu vực có nhiều diễn biến nhanh chóng, phức tạp, khó lường, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đã nỗ lực phấn đấu thực hiện thắng lợi Nghị quyết Trung ương 8 Khóa XI và đạt được những kết quả quan trọng.
Điển hình là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa; bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc; bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và nền văn hóa; giữ vững ổn định chính trị và môi trường hòa bình để xây dựng, phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Để hiểu rõ vấn đề này, Báo điện tử VietNamNet tổ chức Tọa đàm: “Nhìn lại 10 năm thực hiện Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”.
Chúng tôi hân hạnh giới thiệu hai vị khách mời của chương trình:
- Thiếu tướng, Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Hồng Quân, nguyên Phó Viện trưởng Viện Chiến lược quốc phòng, Bộ Quốc phòng.
- Đại tá, Thạc sĩ Vũ Văn Khanh, nguyên Trưởng Ban Quốc tế, Viện Chiến lược quốc phòng, Bộ Quốc phòng.
Mời độc giả theo dõi video Tọa đàm tại đây:
Bước đột phá về sự lãnh đạo của Đảng với nhiệm vụ quốc phòng, an ninh bảo vệ Tổ quốc
Nhà báo Diệu Bình: Là nghị quyết chuyên đề về bảo vệ Tổ quốc của Đảng, xin Thiếu tướng, GS TS Nguyễn Hồng Quân cho biết đôi nét về Nghị quyết Trung ương 8 Khóa XI về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới?
Thiếu tướng, GS TS Nguyễn Hồng Quân: Nghị quyết Trung ương 8 Khóa XI về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới đã đánh giá một cách đúng đắn, khách quan về tình hình thế giới, khu vực cũng như trong nước. Chúng ta xác định rõ mục tiêu, quan điểm, phương châm chỉ đạo cũng như quan điểm nhất quán khoa học về xác định đối tượng cách mạng và đối tác cách mạng Việt Nam. Nghị quyết đã đề ra 6 nhiệm vụ và giải pháp liên quan đến các lĩnh vực.
Thứ nhất: Về vấn đề xây dựng đổi mới Đảng, chính quyền và Nhà nước là phải nâng cao chất lượng công tác xây dựng Đảng, bảo vệ Đảng, bảo vệ an ninh chính trị nội bộ, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Trong thời gian vừa qua, Đảng ta, nhân dân ta đã thực hiện rất tích cực, quyết liệt nội dung này, đặc biệt là công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng.
Thứ hai: Phát triển kinh tế gắn kết chặt chẽ với công tác bảo đảm quốc phòng và an ninh, đồng thời giải quyết tốt các vấn đề kinh tế, xã hội nảy sinh trong quá trình phát triển kinh tế.
Thứ ba: Về văn hóa, Nghị quyết xây dựng, phát triển nền văn hóa dân tộc tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển và nâng cao hoạt động thông tin tuyên truyền. Chất lượng hoạt động thông tin tuyên truyền được nhấn mạnh trong Nghị quyết Trung ương 8 Khóa XI.
Thứ tư: Củng cố, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Đây không phải là nhiệm vụ mới nhưng Đảng ta nhấn mạnh nội dung phát huy hiệu quả của đoàn kết toàn dân tộc, không chỉ là dân tộc sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam mà cả 5,3 triệu người Việt Nam đang định cư ở các nước trên thế giới.
Thứ năm: Củng cố vững chắc nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân. Xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh, có sức chiến đấu cao để ứng phó với những thách thức, yêu cầu của tình hình mới.
Thứ sáu: Triển khai toàn diện, đồng bộ đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, tích cực hội nhập quốc tế, tạo môi trường quốc tế thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Nghị quyết này cũng là cơ sở để sau này Đảng ta có Nghị quyết, Bộ Chính trị có Nghị quyết về hội nhập quốc tế. Gần đây, trong Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII, chúng ta nâng lên là hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng và hiệu quả để phát triển.
10 năm qua, tình hình thế giới khu vực có những diễn biến phức tạp, nét chung vẫn là xu thế hòa bình ổn định. Trong bối cảnh đó, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta nỗ lực phấn đấu và đã giành được những thành tựu rất to lớn trong việc thực hiện Nghị quyết này.
Nhà báo Diệu Bình: Ông đánh giá thế nào về vai trò, tầm quan trọng của Nghị quyết với công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc hiện nay? Xin mời Đại tá, Thạc sĩ Vũ Văn Khanh.
Đại tá, Thạc sĩ Vũ Văn Khanh: Nghị quyết Trung ương 8 Khóa XI được ban hành trên cơ sở tổng kết cả lý luận và thực tiễn sau gần 30 năm đổi mới, nhất là kế thừa 10 năm triển khai và thực hiện Nghị quyết Trung ương 8 Khóa IX. Đây có thể nói là kết tinh trí tuệ của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Nghị quyết có vai trò đặc biệt quan trọng, thể hiện đường lối tư duy đổi mới, là bước đột phá về sự lãnh đạo của Đảng đối với nhiệm vụ quốc phòng, an ninh bảo vệ Tổ quốc. Xác định rõ mục tiêu, nhiệm vụ, phương châm và các giải pháp để thực hiện nghị quyết trong bối cảnh tình hình trong nước và khu vực diễn biến phức tạp, khó lường.
Thông qua việc điều hành Nghị quyết, nâng cao ý thức của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân trong trách nhiệm, nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc và tạo ra động lực mạnh mẽ thúc đẩy toàn Đảng, toàn dân và lực lượng vũ trang thực hiện thắng lợi nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc.
Chúng ta có hai nghị quyết, hai chiến lược rất quan trọng. Đó là Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và Chiến lược bảo vệ Tổ quốc. Hai chiến lược này được coi là tính chất cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kim chỉ nam để thực hiện những nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Chiến lược bảo vệ Tổ quốc có thể coi là một chiến lược quốc gia, bao trùm lên nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, là cơ sở nền tảng để triển khai những quan điểm chỉ đạo cho chiến lược quốc phòng, chiến lược quân sự, chiến lược bảo vệ an ninh quốc gia trên đường biên giới quốc gia, chiến lược bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng…
Nhà báo Diệu Bình: Trong 10 năm qua, chúng ta đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, có ý nghĩa lịch sử và toàn diện trong nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Xin Thiếu tướng, GS TS Nguyễn Hồng Quân nêu một vài kết quả điển hình?
Thiếu tướng, GS TS Nguyễn Hồng Quân: 10 năm qua, chúng ta đã đạt được kết qủa rất quan trọng có ý nghĩa lịch sử và toàn diện trong công cuộc bảo vệ Tổ quốc. Tôi xin nêu 3 thành quả điển hình.
Thành quả thứ nhất là đã xây dựng lực lượng quốc phòng toàn dân một cách toàn diện. Trong đó, tiềm lực quốc phòng, lực lượng quốc phòng, thế trận quốc phòng được tăng cường. Thế trận quốc phòng toàn dân ngày càng gắn bó với thế trận an ninh nhân dân. Hai thế trận này tạo thành thế vững chắc. Chúng ta coi trọng việc xây dựng tiềm lực chính trị tinh thần. Ngoài ra, phát triển tiềm lực kinh tế, tăng cường tiềm lực khoa học quân sự, tiềm lực về đối ngoại. Tất cả những vấn đề đó tạo thành sức mạnh tổng hợp của đất nước.
Trong tiềm lực chính trị tinh thần, xây dựng, củng cố hệ thống chính trị là nhân tố rất quan trọng trong nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Chúng ta tăng cường dự trữ cơ sở vật chất cho quốc phòng, phát huy tốt hiệu quả của 28 khu kinh tế quốc phòng, của đoàn kinh tế quốc phòng. Đó là những nét mới. Hiệu quả của đoàn kinh tế quốc phòng, các khu kinh tế quốc phòng ngày càng phát huy và giữ vai trò quan trọng trong việc củng cố thế trận quốc phòng tại chỗ. Đồng thời tăng cường an ninh, tăng cường lực lượng quốc phòng ở những địa bàn vùng sâu, vùng xa, biên giới và hải đảo. Tất cả tăng thêm sức mạnh tổng hợp của đất nước.
Công nghiệp quốc phòng ngày càng lớn mạnh. Chúng ta đã vận dụng, ứng dụng những công nghệ mới của thế giới trong lĩnh vực quốc phòng. Từ đó sản xuất được những sản phẩm phục vụ quốc phòng cũng như những sản phẩm phục vụ cho hệ thống chỉ huy trong quân đội, trong lực lượng vũ trang nhân dân.
Ngành công nghiệp quốc phòng đã sản xuất, đóng được tàu mấy ngàn tấn; có thể sản xuất được một số loại thuốc phóng, một số loại thuốc nổ, sản xuất một số loại khí tài phòng hóa hay một số thiết bị thông tin liên lạc. Trước đây, những sản phẩm này phải nhập khẩu nhưng hiện nay do trong nước đã sản xuất nên tiết kiệm được ngoại tệ để phục vụ phát triển kinh tế.
Thành quả thứ hai, đó là thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ phòng thủ tác chiến. Chúng ta chấp hành nghiêm quy định sẵn sàng chiến đấu trong mọi thời tiết, mọi hoàn cảnh. Nêu cao tinh thần cảnh giác, phối hợp chặt chẽ giữa quân đội, giữa công an với ngoại giao để nắm chắc tình hình, xử lý kịp thời các vấn đề xảy ra trên bộ, trên không, trên biển, trên đảo và biên giới. Tham mưu cho Quân ủy Trung ương, cho Bộ Chính trị để Đảng ra những quyết định sáng suốt đúng đắn. Chúng ta đã giữ vững được an ninh chính trị, giữ vững được độc lập chủ quyền và thống nhất toàn vẹn lãnh thổ cũng nhờ phối hợp chặt chẽ của lực lượng này.
Chúng ta đã xây dựng hệ thống công trình phòng thủ ở trên đất liền, trên các vùng biển đảo để nâng cao phòng thủ biển đảo và thềm lục địa. Công trình tuần tra đường biên giới cũng đã hoàn thành. Kết hợp phân giới cắm mốc, tăng dầy các cột mốc dọc biên giới với Lào, Trung Quốc. Đến nay, đã hoàn thành 84% phân giới cắm mốc biên giới với Campuchia và đang phấn đấu cùng với nước bạn tiến hành phân giới cắm mốc nốt 16% đường biên còn lại.
Bên cạnh đó, tiếp tục diễn tập, diễn tập nâng cấp chiến dịch chiến lược, diễn tập khu vực phòng thủ. Tổ chức chủ đạo phòng thủ dân sự, trong đó, quân đội làm nòng cốt về tìm kiếm cứu nạn, chống thiên tai. Đặc biệt, quân đội coi tìm kiếm cứu nạn, phòng chống thiên tai là nhiệm vụ chiến đấu trong thời bình.
Các đơn vị đóng quân trên địa bàn khi có yêu cầu về tìm kiếm cứu nạn, về phòng chống thiên tai, người chỉ huy đơn vị đó được chủ động xử lý vấn đề trước khi báo cáo cấp trên là Bộ Quốc phòng. Đây là nét mới cũng như là thành tích nổi bật được Bộ Quốc phòng rất quan tâm, chỉ đạo bộ đội cấp dưới sẵn sàng giúp dân.
Thành quả thứ ba, đó là xây dựng quân đội nhân dân ngày càng vững mạnh về chính trị cũng như sắp xếp lại biên chế theo hướng tinh - gọn - mạnh. Đã sắp xếp thu gọn đầu mối của hàng trăm cơ quan cũng như là các đơn vị nhỏ để tăng số lượng bộ đội trực tiếp cầm súng hơn là số lượng gián tiếp.
Đầu mối quân đội gọn nhẹ hơn, làm cho các đơn vị tham gia trực tiếp vào nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu ngày càng tăng lên. Tới đây, tiếp tục thu gọn một số quân đoàn, rút gọn một số đơn vị nhỏ để đúng tinh thần biên chế tinh - gọn - mạnh đáp ứng yêu cầu chiến đấu cho tình hình mới.
Về trang bị trong quân đội, 10 năm qua đã có những bước tiến nhảy vọt. Chúng ta được trang bị tàu ngầm, máy bay chiến đấu… tất cả đáp ứng cho nhu cầu tác chiến trong thời kỳ mới.
Những đơn vị được ưu tiên hiện đại hóa như quân chủng phòng không không quân, lực lượng hải quân, thông tin liên lạc, lực lượng trinh sát kỹ thuật, lực lượng tác chiến điện tử, lực lượng bộ đội biên phòng. Tất cả lực lượng này đã được tập trung hiện đại hóa, thu được những kết quả nhất định.
Đây là 3 thành tựu nổi bật trong việc thực hiện nghị quyết Trung ương 8 Khóa XI.
Nhà báo Diệu Bình: Để đạt được thành quả này, chúng ta đã triển khai những giải pháp nào? Những điểm nổi bật của công tác bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới là gì, thưa Đại tá, Thạc sĩ Vũ Văn Khanh?
Đại tá, Thạc sĩ Vũ Văn Khanh: Tôi hoàn toàn nhất trí với ý kiến của Thiếu tướng, GS TS Nguyễn Hồng Quân về những thành tựu rất to lớn đã đạt được trong qua trình triển khai, thực hiện Nghị quyết Trung ương 8 Khóa XI. Để đạt được những kết quả trên có 5 nhóm giải pháp.
Thứ nhất: Tập trung xây dựng nền quốc phòng toàn dân, toàn diện, độc lập, tự chủ ngày càng hiện đại. Đảng ta coi đây là nhiệm vụ then chốt, nhân tố cốt lõi, nền tảng để tăng cường sức mạnh quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc, thực hiện thắng lợi Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Thứ hai: Chú trọng xây dựng tiềm lực của nền quốc phòng toàn dân, bao gồm tiềm lực kinh tế, tiềm lực chính trị tinh thần, tiềm lực văn hóa xã hội, tiềm lực khoa học công nghệ, tiềm lực quân sự.
Đặc biệt, chú trong xây dựng lòng tin của nhân dân đối với Đảng, đối với chế độ. Điều đó tạo ra một khối vững chắc về sức mạnh đoàn kết, nhờ đó có thể triển khai nhiệm vụ quốc phòng an ninh rất hiệu quả. Đồng thời, chú trọng phát triển kinh tế, xã hội, khoa học công nghệ để tạo tiềm lực cho quốc phòng.
Thứ ba: Tập trung xây dựng lực lượng vũ trang vững mạnh, chính trị tư tưởng chiến đấu như Thiếu tướng GS TS Nguyễn Hồng Quân đã nói là: Sức mạnh chiến đấu của quân đội ngày càng được nâng cao, ngày càng được trang bị hiện đại. Đặc biệt là quân đội đóng vai trò rất quan trọng trong các nhiệm vụ quốc phòng, an ninh và nhất là những nhiệm vụ an ninh phi truyền thống. Tham gia phòng chống, cứu hộ cứu nạn, thiên tai bão lụt, nhất là trong dịch Covid-19 vừa qua, quân đội tham gia rất tích cực, đóng góp rất to lớn trong việc đưa đất nước trở lại trạng thái bình thường mới.
Thứ tư: Tập trung xây dựng các khu vực phòng thủ tỉnh thành ngày càng vững chắc. Củng cố hệ thống phòng thủ biển đảo, từng bước hoàn thiện thế trận quốc phòng toàn dân kết hợp với thế trận an ninh nhân dân và gắn kết chặt chẽ với phát huy sức mạnh tổng hợp của tất cả các lực lượng trong từng địa bàn, bộ, ngành và trên cả nước.
Thứ năm: Thực hiện tốt việc phát triển kinh tế - xã hội, văn hóa với tăng cường phát triển an ninh. Đặc biệt quan tâm cơ sở chính trị vững mạnh ở vùng sâu, vùng xa, các vùng địa bàn trọng điểm, nhất là ở khu vực biên giới, hải đảo, các địa bàn chiến lược. Việc củng cố cơ sở chính trị ở những vùng này rất tốt, như phên dậu để bảo vệ Tổ quốc.
Đối với điểm nổi bật của công tác bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới có thể hiểu là về yêu cầu chúng ta đạt được. Đó là giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển kinh tế, đất nước. Đặc biệt tăng cường quan hệ đối ngoại, nâng cao vị thế uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế. Tiếp đến là phát triển kinh tế - xã hội kết hợp với quốc phòng an ninh.
Cuối cùng là tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong công tác xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước, củng cố sức mạnh đoàn kết, thống nhất trong Đảng, lòng tin của nhân dân, sự đảm bảo ổn định chính trị xã hội. Đây là yêu cầu rất quan trọng.
Xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, có chất lượng tổng hợp và sức chiến đấu ngày càng cao. Đặc biệt là một số đơn vị, lực lượng có thể tiến thẳng đến hiện đại như Thiếu tướng Nguyễn Hồng Quân đã nói. Cần phải chủ động đấu tranh, làm thất bại âm mưu diễn biến hòa bình của các thế lực thù địch, ngăn chặn có hiệu quả các nguy cơ xung đột có thể dẫn đến chiến tranh.
Nhà báo Diệu Bình: Tình hình thế giới và khu vực trong những năm tới còn diễn biến phức tạp, khó lường. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư phát triển mạnh mẽ, tạo đột phá trên nhiều lĩnh vực, mang đến cả thời cơ và thách thức đối với mọi quốc gia, trong đó có Việt Nam. Vậy những thách thức và thời cơ này là gì? Xin Thiếu tướng, GS TS Nguyễn Hồng Quân phân tích, đánh giá cụ thể.
Thiếu tướng, GS TS Nguyễn Hồng Quân: Nói về thách thức, hiện nay các nước lớn đang điều chỉnh chiến lược để giành thế thắng trong cạnh tranh nên họ dùng cả những biện pháp đe dọa dùng vũ lực. Chuyện sử dụng vũ lực này dẫn đến vi phạm các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, vi phạm Hiến chương Liên hiệp quốc. Thậm chí người ta còn thay đổi đường biên giới quốc tế bằng vũ lực, điều đó làm cho các nước lớn thiếu tin cậy lẫn nhau, các nước vừa và nhỏ cảm thấy lo ngại đến việc can thiệp của nước lớn. Nó khiến cho các nước lúc nào cũng lo chạy đua vũ trang. Việc tăng cường chạy đua vũ trang sẽ làm giảm nguồn lực để phát triển kinh tế nên luôn tạo ra tâm lý căng thẳng, không yên tâm về bối cảnh thế giới luôn có những biến động bất thường nào đó.
Thách thức thứ hai là về kinh tế. Chúng ta thấy rằng, không chỉ Việt Nam mà toàn nhân loại vừa trải qua đại dịch khủng khiếp là đại dịch Covid-19. Khắc phục khủng hoảng chưa xong, giờ lại xảy ra xung đột vũ trang Nga và Ukraina khiến giá nhiên liệu tăng, giá lương thực tăng. Tất cả những vấn đề đó dẫn đến đồng tiền mất giá. Kinh tế suy thoái, các chuỗi cung ứng gián đoạn nên tác động tới tất cả các quốc gia. Mọi người dân ở bất cứ đâu cũng đều cảm nhận tác động về kinh tế suy thoái. Nó làm cho kinh tế từng quốc gia cũng như cả thế giới trì trệ, suy thoái, đứt gãy chuỗi cung ứng. Nó phân tách thế giới thành hai khối song song với nhau. Một khối là các nước lớn, một khối là Nga và Trung Quốc đứng đầu và làm chậm lại quá trình toàn cầu hóa, Người thiệt hại chính là các nước vừa và nhỏ.
Đối với chúng ta, cảm nhận rõ rệt từ tháng 2/2012 đến giờ là tranh chấp chủ quyền ở vùng Biển Đông, vùng Tây Nam bắt đầu nhen nhóm lên. Nguy cơ bùng nổ xung đột vẫn chưa khắc phục được.
Trong nội địa, Đại tá Vũ Văn Khanh vừa nói, các thế lực thù địch tiếp tục đẩy mạnh chống đối, nguy cơ mất ổn định xảy ra. Từ tháng 2/2012 đến giờ, bắt đầu có những nguy cơ trỗi dậy, nhen nhóm ở những vùng trước đây rất nhạy cảm như Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ có xu hướng mất ổn định trở lại. Lực lượng phản động bắt đầu kích hoạt từ những cuộc xung đột trên thế giới, đưa đến thành một hiệu ứng để có thể xảy ra những tác động xấu hơn ở khu vực này.
Bên cạnh những tác động tiêu cực như vậy, chúng ta có một số cơ hội. Chúng ta đã đổi mới gần 36 năm, đất nước có nhiều thành quả. Chưa bao giờ cơ đồ, vị thế, uy tín của đất nước lại lớn như bây giờ. Đấy là điều rất mừng. Sức mạnh tổng hợp của quốc gia, dân tộc không ngừng được nâng cao. Thế và lực cũng nâng một tầm cao mới. Chế độ xã hội chủ nghĩa được giữa vững và tăng cường.
Đại đoàn kết toàn dân được củng cố, phát triển. Vai trò và sự lãnh đạo của Đảng được giữ vững và nâng cao. Lòng tin đối với Đảng của nhân dân ngày càng được củng cố. Nhân dân mong đợi quyết sách đúng đắn của Đảng, Bộ Chính trị về xử lý những vụ án tham nhũng, trọng điểm. Đó là điều rất phấn khởi, nhân dân vẫn tin tưởng vào đường lối lãnh đạo của Đảng.
Kinh tế vĩ mô của chúng ta ổn định. Dù kinh tế thế giới suy thoái, Việt Nam cũng có suy giảm nhưng đến giờ phút này thế giới vẫn nhìn nhận Việt Nam là một trong những điểm sáng trong việc hồi phục và phát triển kinh tế. Năm vừa rồi, chúng ta đạt tốc độ tăng trưởng cao nhất, nhì khu vực với con số 8,3%. Điều đó là rất lớn vì có nước lớn chỉ đạt 3%.
Quốc phòng an ninh được củng cố, phát triển, quan hệ đối ngoại tiếp tục mở rộng. Uy tín của đất nước được tăng cao, uy tín của quân đội, công an cũng được nâng cao ở trong khu vực và trên thế giới. Chúng ta tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình Liên hiệp quốc để đóng góp trách nhiệm của Việt Nam với cộng đồng quốc tế. Vừa qua, Tổng thư ký Liên hiệp quốc sang thăm Việt Nam đánh gia rất cao đóng góp này của Việt Nam. Điều đó cho thấy, có cơ sở để tin tưởng vào sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Tuy nhiên, chúng ta cần chủ động phòng ngừa, kiên quyết không để xảy ra diễn biến xấu, diễn biến bất lợi cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.
Điểm sáng trong công tác đối ngoại quốc phòng
Nhà báo Diệu Bình: Những năm qua, công tác đối ngoại phục vụ Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới được thể hiện ra sao và đã đạt những thành tựu gì nổi bật? Xin Đại tá, Thạc sĩ Vũ Văn Khanh cho biết một số ví dụ điển hình.
Đại tá, Thạc sĩ Vũ Văn Khanh: Công tác đối ngoại với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc có mối quan hệ khăng khít, tác động qua lại, hỗ trợ lẫn nhau. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế… hoạt động đối ngoại có vai trò quan trọng và gắn liền với vấn đề quốc phòng an ninh, bảo vệ Tổ quốc.
Hoạt động đối ngoại tạo nên sức mạnh tổng hợp quốc gia, vì vậy, Đảng ta xác định, sức mạnh tổng hợp về chính trị tư tưởng, kinh tế xã hội và đối ngoại.
Đối ngoại không chỉ là một bộ phận cấu thành, còn góp phần phát huy, thu hút các nguồn lực khác ở bên ngoài để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đường lối đối ngoại là bộ phận không thể tách rời và phục vụ cho đường lối cách mạng. Đường lối cách mạng chỉ đạo công tác đối ngoại. Ngược lại, công tác đối ngoại là hoạt động cụ thể để triển khai chính sách cũng như là đường lối của Đảng và Nhà nước.
Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1981 và bổ sung, phát triển năm 2001, chúng ta xác định mục tiêu của công tác đối ngoại là tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc lên chủ nghĩa xã hội, góp phần vào sự nghiệp đấu tranh chung của nhân dân thế giới, hòa bình độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Công tác đối ngoại không chỉ phục vụ cho việc xây dựng đất nước mà còn phục vụ cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.
Hơn 35 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, công tác đối ngoại của chúng ta đã đạt được rất nhiều thành tựu. Có ba thành tựu cơ bản, rất nổi bật là:
Thứ nhất: Công tác đối ngoại đã góp phần phá vỡ sự bao vây, cấm vận, tạo dựng môi trường quốc tế thuận lợi để phát triển đất nước. Sau năm 1975, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, chúng ta chưa bước vào một ngày hòa bình. Ngày 1/5 mới chính thức tiếp thu toàn bộ miền Nam thì ngày 3/5, Polpot đã tiến công đảo Thổ Chu và Phú Quốc, sau đó gây ra hàng loạt cuộc thảm sát đối với đồng bào ta ở dọc biên giới. Như vậy, đất nước ta bước vào cuộc chiến tranh mới ở biên giới phía Tây Nam và tiếp đó là cuộc chiến tranh mới ở biên giới phía Bắc.
Tiếp đó, các nước lớn bắt đầu cấm vận với Việt Nam. Chúng ta bị bao vây, cấm vận, cô lập trên trường quốc tế. Thời điểm đó rất khó khăn. Ở trong nước, suy nghĩ chủ quan, duy ý chí cũng như mắc sai lầm trong chỉ đạo phát triển kinh tế nên đất nước lâm vào thời kỳ khủng hoảng trầm trọng. Lúc đó buộc chúng ta phải có suy nghĩ, tư duy mới để thoát ra khỏi sự bao vây, cấm vận này.
Dấu mốc quan trọng nhất là Nghị quyết số 13 của Bộ Chính trị tháng 5/1988. Đây có thể nói là sự khởi đầu quá trình đổi mới đất nước về nhận thức tư duy đổi mới của Đảng. Chính vì thế, chúng ta đã tiến tới bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc năm 1991, bình thường hóa quan hệ với Mỹ năm 1995. Tháng 7/1995, Việt Nam tham gia ASEAN. Một loạt sự kiện sau đó, chúng ta tham gia APEC, Tổ chức thương mại thế giới WTO… Uy tín, vị thế của Việt Nam ngày càng cao trên trường quốc tế.
Đặc biệt, sau khi tham gia ASEAN với tinh thần học hỏi, Việt Nam đã vươn lên, thích ứng, đi đầu trong việc đua ra các sáng kiến và được các nước chấp nhận. Việt Nam có nhiều đóng góp quan trọng trong các khuôn khổ của ASEAN, ví dụ như ASEAN+3, ASEAN+1. Việt Nam là nước đầu tiên tổ chức hội nghị ASEAN+. Đó là những điểm sáng rất quan trọng, từ một nước bị bao vây, cấm vận mà nhờ những chính sách đổi mới, Việt Nam đã mở cửa và không còn bị cô lập, không ngừng mở rộng làm sâu sắc thêm quan hệ với các nước. Đây là những điều kiện hết sức thuận lợi để tập trung cho phát triển kinh tế, phát triển đất nước, bảo vệ Tổ quốc.
Thứ hai: Công tác đối ngoại đã góp phần giải quyết hòa bình các vấn đề tranh chấp, biên giới lãnh thổ, biển đảo với các nước liên quan. Hoàn thiện các khuôn khổ pháp lý về biên giới lãnh thổ. Mở rộng giao lưu với các nước, các lực lượng bảo vệ biên giới láng giềng, hợp tác xây dựng đường biên giới ổn định, hữu nghị, hợp tác và phát triển.
Mở đầu là những hiệp định với Trung Quốc năm 2000, trong đó có Hiệp định phân định Vịnh Bắc bộ và Hiệp định hợp tác nghề cá, Hiệp định biên giới. Sau quá trình cùng bạn phối hợp, đến tháng 12/2008, hoàn thành việc phân giới cắm mốc ở biên giới với Trung Quốc. Chúng ta cũng hoàn thành đường biên giới với nước bạn Lào vào năm 2017. Hiện nay đã hoàn thành được 84% và đang tiếp tục thực hiện.
Trong quá trình thực thi ký kết với nước bạn về bảo vệ biên giới, bộ đội biên phòng Việt Nam phối hợp rất chặt chẽ với các lực lượng bảo vệ biên giới của các nước. Trong việc tổ chức tuần tra chung, chúng ta đấu tranh hiệu quả với các hoạt động buôn lậu, xuất nhập cảnh trái phép, ngăn chặn các hoạt động chống phá Nhà nước.
Khi trao đổi với các nước, tôi thấy họ không có những hoạt động như Việt Nam làm, là giao lưu biên giới, gặp gỡ, trao đổi, tọa đàm rồi cơ chế giao ban biên giới, bộ đội Việt Nam giúp đỡ cho nhân dân các nước bạn, chữa bệnh…Điều đó góp phần rất quan trọng để nâng cao uy tín của quân đội, Nhà nước trên trường quốc tế.
Thứ ba: Chúng ta đã mở rộng và nâng cao hiệu quả các mối quan hệ quốc phòng, quan hệ song phương và đa phương, chủ động tích cực tham gia vào các cơ chế đó. Trong quan hệ song phương, chúng ta đã có quan hệ với khoảng 100 nước, về đầu tư, thương mại, kinh tế có khoảng 224 nước, vùng lãnh thổ. Chúng ta đã thiết lập quan hệ chiến lược với 16 nước, đối tác toàn diện với 11 nước, quan hệ chiến lược đặc biệt với Lào, Campuchia.
Trong khuôn khổ đa phương, đặc biệt là khuôn khổ ASEAN, Việt Nam là quốc gia rất tích cực. Quá trình tham gia các hội nghị, diễn đàn của ASEAN, chúng ta đưa ra nhiều sáng kiến rất kịp thời, mang tính chất đi trước thời đại và đều được Hội nghị Bộ trưởng quốc phòng ASEAN chấp nhận.
Gần đây, chúng ta tham gia rất tích cực vào hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hiệp quốc. Chúng ta đảm nhiệm chức vụ Ủy viên không thường trực của Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc 2 khóa 2008 - 2009, 2020 – 2021. Việt Nam đã hoàn thành chức Chủ tịch ASEAN Khóa 2010 và 2020, tổ chức hàng trăm hội nghị, diễn đàn thành công. Gần đây nhất, chúng ta đã vào thành viên Hội đồng Nhân quyền Khóa 2023 – 2025. Đây được coi là điểm sáng trong công tác đối ngoại.
Nhà báo Diệu Bình: Bên cạnh những kết quả đáng ghi nhận, công tác đối ngoại cũng không tránh khỏi những tồn tại, hạn chế cần khắc phục. Thưa Thiếu tướng, GS TS Nguyễn Hồng Quân, những tồn tại hạn chế này là gì và chúng ta phải làm gì để giải quyết những vấn đề đó?
Thiếu tướng, GS TS Nguyễn Hồng Quân: Đại tá Vũ Văn Khanh đã khái quát rất rõ những thành tựu của chúng ta trong công tác đối ngoại quốc phòng. Bên cạnh những thành quả đó, chúng ta vẫn có những hạn chế.
Thứ nhất: Việc nhận thức và chỉ đạo có lúc chưa theo kịp diễn biến rất nhanh của tình hình. Từ nhận thức chưa kịp, việc chỉ đạo cũng có phần chậm.
Thứ hai: Có những việc chúng ta đi trước thời đại, có những việc chưa chủ động, hiệu quả chưa cao. Đấy là một thực tế.
Thứ ba: Chúng ta có rất nhiều cơ hội để hiện đại hóa đất nước, quân đội, công nghiệp quốc phòng nhưng việc tận dụng những cơ hội này cũng có mức độ. Nói một cách khách quan, tiềm lực và con người của chúng ta còn hạn chế nên việc tiếp thu thành quả như vũ bão của cách mạng công nghiệp 4.0 còn chậm.
Thứ tư: Chưa có giải pháp đồng bộ, hữu hiệu để hạn chế tiêu cực trong hội nhập quốc tế. Về cơ bản, hội nhập quốc tế là thắng lợi nhưng cũng có tiêu cực, chưa nhận thức rõ để có giải pháp khống chế một cách kịp thời.
Thứ năm: Việc phối hợp với các cơ quan, đơn vị, giữa các địa phương trong công tác đối ngoại chưa chặt chẽ. Bởi lợi ích của từng địa phương đôi khi được đề cao hơn lợi ích quốc gia, dân tộc nên họ chạy theo lợi ích địa phương mà không nghĩ đến lợi ích lớn hơn, lợi ích tổng thể của đất nước dẫn đến việc phối hợp giữa Trung ương và địa phương chưa được thống nhất.
Đặc biệt là công tác nghiên cứu chiến lược, tham mưu, đề xuất còn chậm, chưa có những đề xuất kịp thời, thật sự xác đáng, hiệu quả. Bên cạnh đó, không thể không nói đến công tác đối ngoại đôi lúc còn lúng túng và hiệu quả chưa cao. Ví dụ như câu chuyện tranh chấp ở Biển Đông ai cũng biết nhưng làm sao chuyển tải cho nhân dân thế giới, đặc biệt là nhân dân các nước có liên quan hiểu bản chất của vấn đề. Đó không phải là Việt Nam tham, làm trái pháp luật mà là người khác muốn mở rộng lãnh thổ, vì lợi ích chiến lược muốn chiếm Biển Đông, muốn Việt Nam phục tùng lợi ích của họ… Đối với nội bộ của chúng ta, việc đấu tranh phản bác quan điểm thù địch, sai trái, tự diễn biến, tự chuyển hóa trong nội bộ đã khắc phục nhưng chưa triệt để.
Đó là những hạn chế trong công tác đối ngoại của chúng ta. Vậy cần làm gì để khắc phục, theo tôi, có rất nhiều cách.
Đầu tiên là tăng cường sự bám sát chỉ đạo của Bộ Chính trị, của Ban Bí thư. Đối với công tác đối ngoại quốc phòng, phải bám sát chỉ đạo trực tiếp của Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng và tuân theo sự thống nhất, quản lý của nhà nước.
Điểm thứ hai, phải phát huy vai trò chủ động, tích cực trong công tác đối ngoại, trong đó có đối ngoại quốc phòng, đối ngoại Đảng, ngoại giao, trong Nhà nước và trong nhân dân.
Điểm thứ ba là nhân tố con người, nâng cao trình độ cho cán bộ, nhân dân về kiến thức đối ngoại. Nhìn chung, kiến thức đối ngoại trong 10 năm qua được phổ biến tương đối rộng rãi. Các lớp, các cấp học đều đề cập đến nội dung đối ngoại, quan hệ quốc tế nhưng vẫn cần tăng cường tuyên truyền, tiếp cận đến người dân thông qua các kênh truyền hình, báo, đài.
Phải tăng cường phối hợp kết quả nghiên cứu giữa các cơ quan, đặc biệt là các cơ quan chuyên trách về đối ngoại của Bộ Ngoại giao, Ban Đối ngoại Trung ương, Bộ Quốc phòng, Bộ Công an với các nhà khoa học ở các viện nghiên cứu. Truyền tải những ý kiến chỉ đạo của Trung ương đến các cán bộ nghiên cứu để đề ra đường lối chính sách đúng và kịp thời.
Cuối cùng cần phải hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật, nghị định liên quan công tác đối ngoại, thông tư hướng dẫn. Sau mỗi đợt hoạt động đối ngoại là phải rút kinh nghiệm, những ưu điểm, khuyết điểm cần điều chỉnh… Nếu khắc phục được như vậy, chất lượng công tác đối ngoại sẽ ngày càng tốt đẹp hơn và thu được nhiều thành quả rực rỡ hơn.
Nhà báo Diệu Bình: Đối ngoại là một bộ phận quan trọng của nền ngoại giao Nhà nước, mục tiêu của đối ngoại quốc phòng là thiết lập, phát triển quan hệ về quốc phòng với các nước trên cơ sở bình đẳng, tôn trọng. Xin Đại tá, Thạc sĩ Vũ Văn Khanh có thể khái quát những kết quả nổi bật của đối ngoại quốc phòng Việt Nam những năm qua? Thời gian tới, Việt Nam cần làm gì để mở rộng, nâng cao hiệu quả các mối quan hệ quốc phòng song phương và đa phương?
Đại tá, Thạc sĩ Vũ Văn Khanh: Những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, trực tiếp là Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng, đối ngoại quốc phòng đã đạt được rất nhiều thành tựu. Tôi có thể tóm tắt trong 4 thành tựu chính.
Thứ nhất: Đối ngoại quốc phòng đã góp phần bảo vệ vững chắc nền độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, lợi ích quốc gia dân tộc, giữ vững môi trường hòa bình, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh, xung đột, bảo vệ đất nước từ sớm, từ xa. Có thể nói là thành quả quan trọng.
Đặc biệt đã làm tốt công tác đối ngoại quốc phòng với các nước láng giềng vì đây là những nước có đường biên giới với chúng ta, rất quan trọng trong việc bảo vệ biên giới hòa bình. Chúng ta đã làm tốt vấn đề giải quyết biên giới, đồng thời phối hợp giữ biên giới ngày càng ổn định và phát triển, thể hiện rõ chính sách hòa bình, tự vệ của Việt Nam. Việt Nam luôn tôn trọng các nước nhưng đồng thời đề nghị các nước tôn trọng Việt Nam trong việc bảo vệ chủ quyền lãnh thổ. Nổi bật nhất là hoạt động của bộ đội biên phòng, trong đó có các giao lưu về biên giới với các nước bạn như Lào, Campuchia. Đặc biệt giao lưu với các nước sông Mê Kông, ngoài Trung Quốc, Lào và Campuchia còn có cả Myanmar và Thái Lan.
Thứ hai: Góp phần xây dựng và củng cố lòng tin chiến lược với các nước, các tổ chức, quốc tế, nâng cao uy tín, vị thế của đất nước, quân đội trên trường quốc tế. Cho đến nay, chúng ta kết hợp chặt chẽ với Liên hiệp quốc, đã có quan hệ quốc phòng với khoảng 100 nước – một con số rất lớn, trong đó có đủ 5 nước là Ủy viên thường trực của Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc. Từ quan hệ quốc phòng đa phương, đã nâng tầm quan hệ đối ngoại đa phương rất mạnh mẽ. Từ việc chỉ tham gia học tập, sau đó chúng ta tham gia rất đầy đủ và đưa ra nhiều sáng kiến mang tính chất khu vực, liên khu vực và toàn cầu. Đặc biệt, tham gia rất tích cực và có những đóng góp quan trọng đối với việc giữ vai trò trung tâm của ASEAN trong các cơ chế an ninh khu vực.
Thứ ba: Góp phần vào tiềm lực quốc phòng, quân sự, xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, đáp ứng nhu cầu bảo vệ Tổ quốc. Đặc biệt là đã triển khai hợp tác công nghiệp quốc phòng với các nước theo hướng chuyển giao công nghệ. Chúng ta tiếp thu công nghệ nước ngoài, nâng tầm khả năng sản xuất quốc phòng của Việt Nam. Tháng 12 tới đây sẽ có triển lãm về quốc phòng Việt Nam mang tầm quốc tế nhưng đồng thời cũng là hoạt động thu hút đầu tư, cũng như công nghệ của các nước để phát triển công nghiệp quốc phòng Việt Nam. Thông qua hợp tác, chúng ta không chỉ nhận được sự giúp đỡ về tài chính mà có thể học được về công nghệ, trình độ quản lý, rất quan trọng trong xây dựng tiềm lực quốc phòng.
Chúng ta đã gửi các học viên đi đào tạo nước ngoài nên hiện nay, cơ bản tất cả các lĩnh vực chúng ta đều tham gia, đảm nhiệm, kể cả lĩnh vực khó nhất như đào tạo phi công, đào tạo người nhái. Đó là những lĩnh vực có thể học tập, tiếp thu của nước ngoài và xây dựng quân đội ngày càng phát triển.
Thứ tư: Góp phần đấu tranh, làm thất bại âm mưu, diễn biến hòa bình của các thế lực thù địch, bảo vệ chế độ, ổn định chính trị để phát triển và bảo vệ đất nước. Trong quá trình triển khai và đối ngoại quốc phòng, đã làm tốt việc tuyên truyền cho mọi tầng lớp nhân dân, cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài, bạn bè quốc tế thông qua các hoạt động thiết thực. Ví dụ: Lực lượng gìn giữ hòa bình của Việt Nam tại Cộng hòa Trung Phi hoặc Nam Sudan giúp chữa bệnh cho nhân dân địa phương… Việc đó làm nâng cao uy tín của Việt Nam và cũng là bằng chứng để phản bác quan điểm chống đối của các thế lực thù địch khi nói xấu, bôi nhọ chế độ hoặc quân đội. Đó chính là bằng chứng sống để đập lại những luận điệu xuyên tạc.
Trong thời gian tới, để tiếp tục nâng cao hiệu quả mối quan hệ quốc phòng song phương và đa phương, tôi xin tập trung vào 6 giải pháp:
Thứ nhất: Tiếp tục quán triệt, nhất quán đường lối đối ngoại theo tinh thần của Đại hội XIII của Đảng. Đó là độc lập tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; đa dạng hóa, đa phương hóa, bảo đảm lợi ích quốc gia dân tộc để Việt Nam trở thành bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trọng cộng đồng quốc tế.
Trong chính sách quốc phòng, tiếp tục thực hiện chính sách 4 không, tức là không liên minh quân sự, không đi theo nước này chống nước kia, không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự ở Việt Nam để chống lại nước khác và không dùng vũ lực, đe dọa hòa bình trong quan hệ quốc tế. Đó là những nguyên tắc rất quan trọng cần tiếp tục phát huy, triển khai trong đối ngoại quốc phòng.
Thứ hai: Nâng cao hiệu quả hoạt động của đối ngoại quốc phòng, tạo ra môi trường ổn định, phát triển. Tôi nghĩ rằng, cần làm sâu sắc hơn quá trình triển khai công tác đối ngoại đối với quan hệ các nước, kể cả trước mắt và lâu dài. Có tầm nhìn dài hơn, khắc phục những điểm yếu đã mắc phải. Tiếp tục mở rộng quan hệ đối ngoại quốc phòng để chúng ta có ít kẻ thù hơn, nhiều bạn bè hơn và sẽ tránh được đối đầu, giảm thiểu nguy cơ chiến tranh.
Thứ ba: Phát huy sức mạnh tổng hợp để tạo nền tảng vững chắc, thực hiện kế sách bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa bằng biện pháp hòa bình. Thời gian tới, Bộ Quốc phòng tếp tục đi vào hoạt động thực chất hơn, hiệu quả hơn như Thiếu tướng Nguyễn Hồng Quân nói, giai đoạn đầu chúng ta có những hoạt động chưa hiệu quả lắm bởi đó là việc mới, lĩnh vực mới cần tiếp tục học tập. Sau này khi đã có kinh nghiệm, chúng ta tiếp tục đưa hoạt động đối ngoại quốc phòng hiệu quả hơn nữa.
Thứ tư: Kiên định nguyên tắc, linh hoạt về sách lược và giữ vững độc lập tự chủ cho quan hệ quốc phòng. Chúng ta phải luôn lấy lợi ích, quốc gia dân tộc là trên hết, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, chế độ, vai trò lãnh đạo tuyệt đối của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với sự nghiệp quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc.
Trong xử lý mối quan hệ, phải xác định vừa hợp tác vừa đấu tranh: ở đây vừa có đối tác, vừa có đối tượng. Trong đối tác có mặt đối tượng, trong đối tượng có mặt đối tác, phải khai thác hài hòa, linh hoạt, tức là “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” trong đối ngoại quốc phòng.
Thứ năm: Triển khai chủ động, đồng bộ linh hoạt, sáng tạo, hiệu quả công tác đối ngoại quốc phòng trong tình hình mới. Tích cực theo dõi và chủ động nắm bắt, phân tích, dự báo tình hình quốc tế và khu vực trong nước để đề ra những quyết sách phù hợp và đảm bảo. Khi triển khai đối ngoại quốc phòng phải trên cơ sở lợi ích quốc gia dân tộc nhưng đồng thời phù hợp với tình hình đất nước và khu vực, quốc tế.
Thứ sáu: Tăng cường phối hợp giữa đối ngoại quốc phòng với các công tác đối ngoại khác. Chúng ta có đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước, đối ngoại nhân dân và đối ngoại quốc phòng. Như vậy, bốn mặt công tác này phải trở thành mặt trận thống nhất. Đây chính là công tác phối hợp cần làm tốt hơn nữa và có như vậy mới thực hiện thắng lợi mục tiêu công tác đối ngoại mà Đại hội Đảng XIII đã đề ra.
Chủ động phòng ngừa, ứng phó kịp thời, hiệu quả với các mối đe dọa
Nhà báo Diệu Bình: Đại hội Đảng lần thứ XII đã có nhiều thành tựu nổi bật trong nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, xây dựng nền an ninh quốc phòng toàn dân. Đại hội Đảng lần thứ XIII đã kế thừa và phát huy thành tựu này ra sao? Những quan điểm mới của Chiến lược bảo vệ Tổ quốc được tiếp tục cụ thể hóa thế nào? Xin mời Thiếu tướng, GS TS Nguyễn Hồng Quân.
Thiếu tướng, GS TS Nguyễn Hồng Quân: Việc kế thừa bài học kinh nghiệm giữ nước từ khi nước chưa nguy, Đại hội XIII của Đảng đã nhấn mạnh, làm sâu sắc quan điểm bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa trong điều kiện mới. Theo tinh thần Đại hội XIII, Đảng ta tiếp tục khẳng định:
Thứ nhất: Bổ sung, phát triển các quan điểm, kết hợp hai nhiệm vụ bảo vệ và xây dựng Tổ quốc. Điều đó thể hiện rất rõ trong Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XIII.
Thứ hai: Kết hợp chặt chẽ giữa quốc phòng, an ninh với phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội và đối ngoại. Đây là lần đầu tiên Đại hội XIII đưa vào kết hợp quốc phòng an ninh và đối ngoại. Mặc dù thực tế đã diễn ra nhưng giờ đưa thành lý luận trong Đại hội lần này gắn nhiệm vụ quốc phòng với nhiệm vụ an ninh và nhiệm vụ đối ngoại. Điều đó cũng yêu cầu ba lĩnh vực quốc phòng, an ninh, đối ngoại phải tăng cường hơn nữa mối quan hệ đoàn kết, gắn bó khăng khít, chặt chẽ hơn, từ trao đổi tình hình, phối hợp xử lý các vấn đề trên không, trên bộ, trên biển, trên biên giới, đất liền…
Thứ ba: Đại hội XIII khẳng định, phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị để tăng cường tiềm lực của đất nước, trong đó có tiềm lực quốc phòng.
Thứ tư: Đại hội XIII nhận thức rõ hơn vai trò của an ninh, đối ngoại. Trở lại tư tưởng Hồ Chí Minh, ngay từ năm 1946, Bác Hồ đã nói: trong giữ nước, quan trọng nhất là dùng mưu; thứ hai là dùng ngoại giao; thứ ba mới là đến dùng binh. Hiện nay, Đảng ta tiếp tục phát triển và làm rõ hơn quan điểm, tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề giữ nước, vai trò quốc phòng, an ninh với đối ngoại.
Chúng ta làm rõ hơn nội hàm: Xây dựng quốc phòng toàn dân trong thời kỳ mới là gì? Nội hàm xây dựng an ninh nhân dân mới là củng cố quốc phòng an ninh, gắn hai thế trận này với nhau, tạo thành thế trận quốc phòng toàn dân. Đây là điểm mới được nhắc đến trong Đại hội Đảng XIII và tiếp tục triển khai trong thời gian tới. Trong đó, Đại hội Đảng XIII chỉ rõ phương châm chỉ đạo là: Có biện pháp ngăn ngừa nguy cơ chiến tranh xung đột từ sớm, từ xa. Ở đây nỗ lực phấn đấu ngăn ngừa xung đột từ sớm từ xa nhưng giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa bình, phù hợp với luật pháp quốc tế, thông lệ trên thế giới.
Luật pháp quốc tế chỉ rõ có 3 mức: Thứ nhất là các bên phải đàm phán, thương lượng với nhau. Thứ hai nếu đàm phán, thương lượng không xong thì phải nhờ đến cơ chế trung gianh òa giải. Thứ ba là khi trung gian hòa giải không xong thì dùng đến cơ chế tài phán quốc tế. Tất cả cho thấy không có quy định nào sử dụng bằng vũ lực. Việc sử dụng vũ lực bây giờ là lạc hậu, không phải mục đích loài người mong muốn và hướng đến. Cho nên phải sử dụng những phương pháp mà luật pháp quốc tế đã nêu ra cách đây 77 năm, từ năm 1945 là đối thoại, thương lượng, trung gian hòa giải, tài phán quốc tế. Quan điểm của Đảng ta cũng nhấn vào và đề cao Hiến chương Liên hiệp quốc và luật pháp quốc tế.
Chúng ta bổ sung và nhấn mạnh an ninh, an toàn và coi an ninh, an toàn là những yếu tố hàng đầu trong cuộc sống của người dân. Đại hội Đảng XIII ngoài đề cập về đất nước còn chú ý đến cuộc sống của 100 triệu người dân, chú ý an ninh, an toàn của từng cá nhân. Chúng ta xác định chủ động phòng ngừa là chính, phải ứng phó kịp thời, hiệu quả với các mối đe dọa an ninh phi truyền thống, nhất là nhiệm vụ cứu hộ, cứu nạn, phòng chống thiên tai dịch bệnh.
Điểm mới là Nghị quyết Đại hội XIII đề cao quan điểm bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa nhưng phải kết hợp bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liện hiệp quốc, của luật pháp quốc tế: Bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi. Điều này đã thể hiện trong Hiến chương Liên hiệp quốc, thể hiện trong các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế.
Chúng ta bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc của mình nhưng không phải cái gì mình cũng nhận là lợi ích quốc gia dân tộc, phải xác định lợi ích quốc gia dân tộc có phù hợp với luật pháp quốc tế hay không? Có phù hợp với Hiến chương Liên hiệp quốc hay không? Nếu có vấn đề gì, cần thiết là phải có trao đổi, thương lượng, phải có đàm phán với nhau trên tinh thần hợp tác, anh có lợi, tôi cũng có lợi, không phải chỉ có lợi một phía, như vậy sẽ không bao giờ gặp nhau được. Tôi cho rằng, đó là những điểm mới, điểm phát triển trong Văn kiện Đại hội Đảng XIII.
Nhà báo Diệu Bình: Chiến lược bảo vệ Tổ quốc, Chiến lược quốc phòng, Chiến lược quân sự có mối quan hệ biện chứng chặt chẽ, tác động qua lại lẫn nhau, tạo thành hệ thống chiến lược nhằm mục tiêu bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong mọi tình huống và sẵn sàng đánh thắng mọi hình thái chiến tranh xâm lược. Xin Đại tá, Thạc sĩ Vũ Văn Khanh phân tích rõ hơn vấn đề này?
Đại tá, Thạc sĩ Vũ Văn Khanh: Để hiểu về mối quan hệ biện chứng giữa chiến lược quốc phòng, chiến lược quân sự, chiến lược bảo vệ Tổ quốc, theo tôi, chúng ta sẽ tìm hiểu thêm một chút về cách các nước trên thế giới triển khai chiến lược.
Ở các nước trên thế giới, quan điểm và tên gọi về chiến lược cũng khác nhau, thế nhưng nhìn chung ở mức cao nhất, đó là chiến lược an ninh quốc gia. Dưới chiến lược an ninh quốc gia là chiến lược quốc phòng, dưới chiến lược quốc phòng là chiến lược quân sự. Từ chiến lược quân sự, người ta xây dựng các kế hoạch, các chương trình, tổ chức biên chế, về vũ khí trang bị, huấn luyện… Đó là cách làm của các nước trên thế giới.
Đối với nước ta, hai chiến lược quan trọng nhất đó là Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và Chiến lược bảo vệ Tổ quốc. Đây là cái căn bản của cách mạng Việt Nam, thể hiện sự bao trùm, định hướng cho tất cả các chiến lược khác. Nếu xét về mức độ quan hệ, chiến lược quốc phòng và chiến lược bảo vệ Tổ quốc là những chiến lược quốc gia. Chiến lược quân sự là chiến lược chuyên ngành. Ba chiến lược này luôn luôn bổ sung cho nhau và tác động lẫn nhau, không phủ nhận lẫn nhau. Cái đó là hết sức quan trọng.
Chiến lược bảo vệ Tổ quốc là mưu lược, là kế sách quốc gia để xác định mục tiêu, quy tụ lực lượng, tạo thành sức mạnh tổng hợp để bảo vệ Tổ quốc. Chiến lược quốc phòng là chiến lược phòng thủ quốc gia và bảo vệ đất nước từ sớm, từ xa mang tính chất hòa bình và tự vệ. Đối với quốc phòng Việt Nam, chúng ta không xâm lược ai mà chỉ bảo vệ đất nước. Đó là bản chất của chính sách quốc phòng Việt Nam. Chiến lược cũng như thế, bằng sức mạnh tổng hợp, chúng ta có những nhân tố quyết định, đó là đường lối chính trị đúng đắn, sức mạnh quốc phòng là then chốt, sức mạnh quân sự là đặc trưng. Sức mạnh trực tiếp là sức mạnh chiến đấu của quân đội. Đó là những nhân tố cốt lõi trong chiến lược quốc phòng Việt Nam.
Chúng ta tiếp tục xây dựng và củng cố lòng tin, quan hệ với các nước để tạo thành sức mạnh không chỉ ở trong nước mà còn ở nước ngoài. Không chỉ nội lực mà còn là ngoại lực.
Chiến lược quốc phòng chính là cụ thể hóa Chiến lược bảo vệ Tổ quốc. Chiến lược quân sự cụ thể hóa Chiến lược quốc phòng. Ba chiến lược này có mối quan hệ khăng khít, chặt chẽ trong lĩnh vực bảo vệ Tổ quốc. Chiến lược quân sự là nội dung nòng cốt để xây dựng hoàn chỉnh phương án tác chiến rất cụ thể là xây dựng thế trận, tổ chức quân đội, bảo đảm trang bị, đào tạo nguồn nhân lực, huấn luyện sẵn sàng chiến đấu, đối phó với các hình thái chiến tranh.
Tôi cho rằng, quán triệt cũng như nhận thức cho đúng, cho đủ các chiến lược và tầm quan trọng, vị trí như vậy, chúng ta mới triển khai được hiệu quả. Nếu hiểu chưa đúng, nhiều khi sẽ bị chồng chéo trong nhận thức cũng như là quá trình triển khai.
Nhà báo Diệu Bình: Chiến lược bảo vệ Tổ quốc thời kỳ mới bao hàm nhiều nội dung, trong đó có thể kể đến Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng. Những năm qua, Việt Nam đã triển khai công tác này như thế nào? Xin Thiếu tướng, GS TS Nguyễn Hồng Quân chia sẻ một số câu chuyện cụ thể.
Thiếu tướng, GS TS Nguyễn Hồng Quân: Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 làm xuất hiện một số hình thái chiến tranh trên không gian mạng như là chiến tranh thông tin, chiến tranh mạng máy tính. Vậy tác chiến là như thế nào?
Đầu tiên, tác chiến trên không gian mạng là loại hình tác chiến chiến lược mới. Nghị quyết 29 ngày 25/7/2018 của Bộ Chính trị Khóa XII về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng đã khẳng định, bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và của cả hệ thống chính trị. Tức là mọi người Việt Nam dù ở cương vị nào, dù làm việc gì cũng đều phải là chiến sĩ tác chiến trên không gian mạng.
Đi vào cụ thể hóa, Nghị định 98 năm 2015 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của lực lượng tác chiến không gian mạng cũng xác định, tác chiến không gian mạng là hoạt động đánh địch có tổ chức chứ không phải cứ thấy là đánh. Đánh địch có tổ chức tức là có người chỉ huy, có người lãnh đạo và đã có tổ chức, chỉ huy thì phải có biên chế, có vũ khí trang bị và đánh trên không gian mạng bằng lực lượng tác chiến không gian mạng để đảm bảo thực hiện chiến tranh nhân dân, toàn dân và toàn diện của chúng ta.
Đó là những nét cơ bản về tác chiến không gian mạng, là loại hình tác chiến chiến lược khác với tác chiến bình thường. Tác chiến không gian mạng, ta không nhìn thấy địch nhưng nếu chúng phá hoại không gian mạng thì có thể gây ra rất nhiều thiệt hại về kinh tế, thậm chí là sinh mạng.
Ví dụ như cuộc tấn công mạng hệ thống của Vietnam Airlines chẳng hạn, là có thể làm chậm, trì trệ chiến bay hoặc là hàng ngàn người phải lo lắng, quan tâm… Tất cả sẽ gây thiệt hại kinh doanh rất lớn. Hoặc có những tác chiến không gian mạng của nước khác, người ta xâm nhập vào hệ thống tài khoản của nhân vật A, tổ chức B lấy cắp hàng trăm, thậm chí hàng chục triệu USD…
Ở đây, tác chiến không gian mạng triển khai trong cả thời bình và thời chiến. Không có ngày đêm, không có giờ giấc, không có ngày nghỉ, có nghĩa là 24/24. Tác chiến trên mọi điều kiện, hoàn cảnh. Lực lượng triển khai là toàn Đảng, toàn quân và toàn dân. Trong đó hiện nay lấy lực lượng của Ban Chỉ đạo 35 Trung ương, lực lượng tác chiến không gian mạng của Bộ Quốc phòng làm nòng cốt kết hợp với lực lượng tác chiến không gian mạng, công nghệ thông tin quân sự, dân sự cùng phối hợp. Tức là có lực lượng nòng cốt, có lực lượng phối hợp.
Lực lượng tác chiến không gian mạng của Bộ Quốc phòng có thể gồm hai lực lượng. Một là lực lượng tác chiến không gian mạng cấp chiến dịch, chiến lược, cấp lực lượng này nằm ở cơ quan Bộ, các quân khu, quân đoàn, các quân binh chủng. Hai là lực lượng công nghệ thông tin của các đơn vị, các doanh nghiệp quân đội cũng được biên chế trong trường hợp này để tham gia phối hợp tác chiến về mặt tác chiến chiến lược của Bộ. Việc bố trí, sử dụng lực lượng phải hợp lý, phù hợp với điều kiện cụ thể, với từng tình huống, từng tình trạng chiến đấu và từng chiến dịch cũng như là giai đoạn của tác chiến trên không gian mạng này.
Ở đây, kết hợp giữa lực lượng chuyên trách với lực lượng kiêm nhiệm có vấn đề đặt ra là tập trung sử dụng lực lượng, hợp lý, đúng khả năng, đúng thế mạnh, đúng sở trường của từng đơn vị. Tác chiến trên từng hướng, từng khu vực, từng mạng, từ xa đến gần và rộng khắp trên tất cả hệ thống thông tin, trên các máy chủ để đảm bảo đúng thời điểm, đúng thời cơ mới chiến thắng và có hiệu suất cao. Lúc đó mới đạt mục tiêu là bảo vệ chủ quyền quốc gia trên không gian mạng.
Bên cạnh xây dựng lực lượng tác chiến trên không gian mạng, đặc biệt là quân đội cũng như công an rất tích cực, mở rộng hợp tác quốc tế với các đối tác quân đội, công an của nước ngoài để học tập kinh nghiệm tác chiến trên không gian mạng của các bạn. Từ đó có thể trao đổi, mua sắm, trang bị phương tiện để nâng cao hiệu suất tác chiến. Đấy chính là mục tiêu của chúng ta.
Mặc dù lực lượng tác chiến không gian mạng của chúng ta mới hình thành trên dưới một thập kỷ nay nhưng đã có những bước tiến rất phấn khởi để đảm bảo an toàn thông tin mạng, an toàn thông tin của các cơ quan tham mưu chiến lược cũng như đảm bảo an toàn thông tin của toàn bộ các ngành kinh tế, các lĩnh vực của đất nước.
Nhà báo Diệu Bình: Trong Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XIII về tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa có nêu luận điểm: “Có kế sách ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa”. Xin Đại tá, Thạc sĩ Vũ Văn Khanh bình luận về nội dung này?
Đại tá, Thạc sĩ Vũ Văn Khanh: Trước hết chúng ta hiểu, chủ động bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa vừa là quan điểm nhưng cũng là phương châm chỉ đạo của Đảng trong bối cảnh nước ta ngày càng hội nhập sâu hơn vào khu vực và thế giới. Quan điểm này thể hiện yếu tố về thời gian, không gian trong vấn đề bảo vệ Tổ quốc. Trong đó, quốc phòng an ninh là yếu tố trọng yếu, giải pháp đối ngoại ngày càng có vai trò quan trọng.
Để bảo vệ Tổ quốc từ sớm, có nghĩa là nói về thời gian, tức là các yếu tố nội dung về bảo vệ Tổ quốc phải được chuẩn bị từ sớm, không để khi xảy ra chúng ta mới tiến hành mà phải duy trì thường xuyên, liên tục. Nếu không thường xuyên, liên tục sẽ không đảm bảo trong suốt quá trình bảo vệ Tổ quốc. Đặc biệt là trong thời bình, phải củng cố và phát triển và đặc biệt là phòng ngừa các nhân tố có thể gây bất lợi, nhân tố dẫn đến chiến tranh. Bảo vệ Tổ quốc từ xa chúng ta hiểu là không gian, đó là sự cảnh giác, chủ động, ngăn ngừa, sớm phát hiện, triệt tiêu các nhân tố có thể phá hoại hoặc bất lợi cả bên trong lẫn bên ngoài.
Bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa được hiểu là tổng thể các hành động mang tính chủ động của Đảng, Nhà nước và nhân dân để phát hiện, ngăn chặn, hóa giải những âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, các hành động chống phá chế độ, xâm phạm chủ quyền biên giới, lãnh thổ, quốc gia, vùng đất, vùng trời, lợi ích quốc gia, dân tộc. Đặc biệt không để cho Tổ quốc bị bất ngờ trước sự phá hoại của các lực lượng thù địch.
Có thể khẳng định rằng, quan điểm bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa của Đảng ta đề cập trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng rất là đúng đắn, không chỉ phù hợp với tinh thần của Chủ nghĩa Mác – Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo vệ Tổ quốc mà còn phù hợp với thực tiễn bảo vệ đất nước. Đây còn là sự kế thừa truyền thống dựng nước và giữ nước của cha ông ta, tức là lo giữ nước từ khi nước chưa nguy.
Trong hàng nghìn năm đấu tranh, dân tộc ta đã bất khuất kiên cường, đương đầu với rất nhiều các thế lực bên ngoài xâm phạm đến Tổ quốc và chúng ta đã thực hiện kế sách ngăn ngừa nguy cơ chiến tranh từ sớm, từ xa. Đây chính là thể hiện tinh thần chủ động, tích cực, chăm lo sức mạnh tổng hợp của nước ta ngay từ trong thời bình.
Chúng ta chuẩn bị thật tốt để sẵn sàng đối phó, sẵn sàng tiến hành chiến tranh nhưng không phải tiến hành chiến tranh mới là thượng sách. Tiến hành chiến tranh chưa phải là giải pháp tối ưu nhưng chúng ta phải tiến hành chuẩn bị, làm sao đất nước luôn luôn sẵn sàng, ứng phó mọi tình huống, bảo vệ vững chắc chủ quyền lãnh thổ. Chúng ta xây dựng đất nước vững mạnh về mọi mặt, nói như các bậc tiền bối là xây dựng nước nhà cường thịnh, giang sơn thêm bền vững, quốc phú binh cường.
Đó là những kế sách hay nhất trong bảo vệ Tổ quốc hiện nay mà Đảng ta đang tiếp tục nâng tầm truyền thống của cha ông ta thêm một bước mới, phù hợp với bối cảnh mới. Khi Việt Nam ngày càng hội nhập sâu hơn vào khu vực và thế giới, chúng ta tham gia rất nhiều cơ chế hoạt động của quốc tế, vai trò của công tác đối ngoại rất quan trọng trong việc phòng tránh chiến tranh cũng như là phòng ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa.
Theo tôi, thời gian tới, bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa có mấy nội dung chính:
Thứ nhất, chủ động cảnh giác, sớm phát hiện, triệt tiêu các nhân tố bất lợi có thể gây ra đột biến như Nghị quyết của Đảng đã nêu ra.
Thứ hai, chủ động đấu tranh, làm thất bại âm mưu, hành động xâm phạm chủ quyền biển đảo, lợi ích, quốc gia, dân tộc. Bảo vệ Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa và nhân dân.
Thứ ba, chủ động ngăn ngừa nguy cơ chiến tranh từ sớm, từ xa. Chúng ta chủ động phòng ngừa là chính, nỗ lực ngăn ngừa xung đột và nguy cơ gây ra chiến tranh, giải quyết các tranh chấp bằng biện pháp hóa bình.
Đó là những vấn đề cần thiết trong quan hệ quốc tế giai đoạn hiện nay, đặc biệt là cần phải thực hện trên cơ sở nguyên tắc của luật pháp quốc tế, quy định của Hiến chương Liên hiệp quốc. Đồng thời góp phần thực hiện thắng lợi chủ trương ngăn ngừa xung đột, nguy cơ chiến tranh từ sớm, từ xa.
Nhà báo Diệu Bình: Theo Thiếu tướng, GS TS Nguyễn Hồng Quân, nội dung trên có gì mới hoặc có điểm nhấn về mặt nội hàm so với các nghị quyết trước đây?
Thiếu tướng, GS TS Nguyễn Hồng Quân: Đại tá Vũ Văn Khanh vừa nói rất khái quát và đầy đủ các kế sách ngăn ngừa nguy cơ chiến tranh và xung đột từ sớm, từ xa. Tôi có bổ sung vài ý như sau:
Thứ nhất, Đại hội Đảng XIII có nói ngăn ngừa các nguy cơ xung đột từ sớm, từ xa. Ở đây đặt ra vấn đề, thế nào là ngăn ngừa từ sớm và thế nào là ngăn ngừa từ xa?
Thứ nhất là ngăn ngừa chiến tranh xung đột từ sớm. Từ sớm là sớm về tư duy, sớm về nhận thức, sớm về phát hiện vấn đề, sớm có quan điểm chỉ đạo, sớm có phương châm hành động và sớm có phương án về tổ chức lực lượng, phương án huấn luyện lực lượng, xây dựng phương án tác chiến trước khi phải thực hiện tác chiến. Mặc dù mục tiêu cuối cùng không phải là tác chiến mà chúng ta chủ động để ngăn chặn chiến tranh phải sớm như vậy. Sớm ở đây là ta thấy có chiến lược bảo vệ, ngăn ngừa triệt tiêu các nhân tố gây chiến tranh xung đột, xâm lược, củng cố sức mạnh nội lực, sớm có lực lượng của mình. Lực lượng đây phải là lực lượng trong sạch, không chỉ khỏe mạnh về thể chất, về vật chất mà trong sạch về tư duy. Có nghĩa là, trong Nghị quyết Đại hội XIII chúng ta phải xác định rõ xây dựng quân đội nhân dân, xây dựng công an nhân dân, lực lượng cách mạng trong sạch, không bị móc nối, không bị cài cắm, không bị bạc nhược tinh thần, lúc nào cũng sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì nhiệm vụ bảo vệ Đảng, bảo vệ nhân dân và Tổ quốc rõ nét như vậy.
Thứ hai, có kế sách ngăn ngừa chiến tranh xung đột từ xa. Từ xa không chỉ về không gian, xa là cả thời gian, tức là phải chủ động, phải cảnh giác càng sớm, càng tốt. Phải sớm phát hiện, sớm triệt tiêu các nhân tố bất lợi từ xa về không gian địa lý, xa về thời gian phát hiện, triệt tiêu ngay từ khi nó mới hình thành.
Nguy cơ mới hình thành phải sớm phát hiện, tìm cách tiêu diệt nó để không đe dọa đến độc lập chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ của đất nước. Chúng ta phải chủ động xây dựng, phát triển quan hệ với lực lượng đối tác bên ngoài, có thể giúp đỡ, có thể làm bạn với mình khi chúng ta chiến đấu, đấu tranh giải phóng dân tộc. Chúng ta không phải chỉ chiến đấu một lần là xong.
Tôi nhớ năm 1946, khi Bác Hồ sang Pháp có gặp một người dân Isarel tị nạn. Bác Hồ có nói, nếu các ông cần mượn đất của Việt Nam, chúng tôi sẵn sàng cho các ông mượn đất để lập Tổ quốc, để tập hợp lực lượng, kháng chiến. Câu chuyện này hơn 60 năm sau, chính người phụ việc cho người Isarel đó trở thành Tổng thống của Isarel đã sang và kể lại với người Việt Nam.
Khi sang Isarel công tác, chúng tôi được nghe kể lại câu chuyện đó về tầm nhìn xa, trông rộng của Chủ tịch Hồ Chí Minh ngay từ năm 1946, cách đây hơn 70 năm. Lúc đó Bác đã nhìn thấy, dân tộc Isarel là dân tộc không có một mảnh đất cắm dùi, bị các lực lượng khác xâm chiếm đất đai. Hơn 1 triệu dân, bây giờ là hơn 10 triệu dân, không có một nơi nương tựa, không có Tổ quốc nhưng Bác Hồ đã nhận thấy đây là những người bạn trong tương lai của cuộc đấu tranh giành độc lập, giải phóng của nhân dân Việt Nam.
Bây giờ chúng ta cũng phải nhìn lực lượng như vậy, những đối tác như thế để chủ động giúp đỡ họ và tạo mối quan hệ đối tác để khi cần họ cũng ủng hộ mình. Quay trở lại Isarel, chúng ta thấy sau mấy chục năm, sau thời kỳ chiến tranh lạnh, chúng ta không có quan hệ giao tiếp với Isarel nhưng kể từ khi chiến tranh lạnh kết thúc, quan hệ giữa Việt Nam và Isarel phát triển rất rực rỡ. Hai bên đều cảm thấy có lợi và tôn trọng lẫn nhau, cùng phát triển mối quan hệ khăng khít, thịnh vượng.
Với câu chuyện của Việt Nam, chúng ta có kế sách ngăn ngừa chiến tranh xung đột từ xa có nghĩa là phải chủ động phân tích, dự báo, có phương án đấu tranh làm thất bại từ bên ngoài mọi âm mưu thế lực thù địch với đất nước. Chủ động hóa giải các mâu thuẫn bởi các mâu thuẫn nếu không giải quyết, có thể dẫn đến nước ta bị cô lập.
Thứ ba, chúng ta phải tính đến lực lượng nào là lực lượng ngăn ngừa chiến tranh xung đột thì Nghị quyết Đại hội Đảng XIII của Đảng ta cũng nêu rất rõ là cả hệ thống chính trị, mỗi người dân đều có trách nhiệm ngăn ngừa chiến tranh xung đột từ sớm, từ xa. Hiến pháp năm 2013 cũng quy định, bảo vệ Tổ quốc là sự nghiệp của toàn dân. Lực lượng chuyên trách là lực lượng vũ trang, lực lượng nòng cốt là quân đội nhân dân nhưng quân đội nhân dân phải là quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại. Đến năm 2025 trở đi, chúng ta xây dựng lực lượng quân đội hiện đại, đến năm 2030 xây dựng lực lượng quân đội thực sự hiện đại. Đó là lực lượng thực hiện nòng cốt cho nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, ngăn chặn chiến tranh xung đột từ sớm, từ xa.
Ngoài lực lượng quân đội nhân dân, còn có công an nhân dân, lực lượng thường trực hợp lý, lực lượng động viên hùng hậu. Tất cả anh em đã từng tham gia quân đội khi về phục vụ xuất ngũ địa phương dưới tuổi quy định theo luật đều trở thành thành viên của lực lượng dự bị. Như vậy, chúng ta có lực lượng rất hùng hậu với mấy chục triệu người trong lực lượng dự bị này.
Đồng thời lực lượng dân quân tự vệ cũng xây dựng vững mạnh và rộng khắp. Thôn bản nào, xã nào cũng có lực lượng dân quân tự vệ. Bình thường họ là người dân, tham gia lao động sản xuất, khi có biến, họ cũng tham gia giữ gìn an ninh trật tự. Khi có biến, họ là lực lượng đầu tiên cầm súng, nổ súng vào lực lượng nước ngoài xâm chiếm đất nước Việt Nam bởi không phải lúc nào cũng có quân thường trực có mặt ở khắp mọi miền Tổ quốc. Đất nước rộng lớn, bao la như vậy phải có lực lượng dân quân tự vệ rộng khắp và sẵn sàng chiến đấu khi thế lực thù địch nước ngoài đến xâm chiếm Việt Nam.
Như vậy, có kế sách ngăn ngừa nguy cơ chiến tranh xung đột từ sớm, từ xa là sớm có kế sách, sớm chuẩn bị tốt các điều kiện ngay trong thời bình, chủ động các phương án, chủ động xây dựng lực lượng, ứng phó kịp thời, hiệu quả, đảm bảo giành thắng lợi. Đồng thời đảm bảo phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, giữ vững quốc phòng an ninh, mở rộng quan hệ đối ngoại. Có như thế mới tạo nên sức mạnh tổng hợp của đất nước, để bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa.
Nhà báo Diệu Bình: Trong lịch sử dân tộc ta, ngay trong thời bình các bậc tiền nhận đã thực hiện nhiều chính sách để làm cho “dân giàu, nước mạnh", “quốc phú, binh cường”, kết hợp chặt chẽ giữa việc binh và việc nông, đẩy mạnh “khoan thư sức dân”. Vậy ngày nay, chúng ta vận dụng bài học tiền nhân ra sao, thưa Đại tá, Thạc sĩ Vũ Văn Khanh?
Đại tá, Thạc sĩ Vũ Văn Khanh: Trong lịch sử giữ nước của dân tộc Việt Nam, không phải khi chiến tranh xảy ra, ngay từ trong thời bình các triều đại phong kiến Việt Nam đã chuẩn bị mọi mặt, đặc biệt là chính sách để tạo ra sự hùng mạnh của đất nước. Đó là thông qua cách là dân giàu, nước mạnh, quốc phú, binh cường, kết hợp giữa việc binh và việc nông.
Trong thời bình thì khuyến khích nhân dân tích cực tham gia lao động, sản xuất, đồng thời dự trữ lương thực, Khi có chiến tranh xảy ra lại tập trung thành lính để bảo vệ giang sơn. Đồng thời có lương thực tích trữ để nuôi quân trong quá trình kháng chiến, bảo vệ đất nước, kiên trì phương châm: “Nội yên, ngoại tĩnh”. Đó là trong nước giữ sao cho yên ấm, bên ngoài có môi trường hòa bình như chúng ta hiểu hiện nay. Đặc biệt là chăm lo cho quân đội, cốt tinh mà không cốt đông, giống như bây giờ chúng ta nói là tinh – gọn – mạnh, tức là không cần nhiều nhưng quân đội phải thực sự là tinh nhuệ. Rồi là ngụ binh ư nông, gửi quân đội trong nhân dân, ngày hòa bình là nông dân, khi chiến tranh xảy ra trở thành người lính.
Đó là điểm đặc sắc trong nghệ thuật quân sự của Việt Nam. Chính triều đại phong kiến có những chính sách rất hay, quan tâm đến việc sử dụng nhân tài. Khi chiến tranh xảy ra đều có những tướng giỏi. Các nước xâm lược nước ta cũng có tướng giỏi nhưng vẫn thua tướng Việt Nam. Chính sách sử dụng nhân tài trong quân đội rất là tốt. Cái này xuất phát từ thực tế là trong chiến tranh, luôn luôn phải đối đầu với thế lực cực mạnh, kể cả quân hùng, tướng mạnh, nếu chỉ dùng quân đội sẽ không thành công, chắc chắn không thể đánh được. Do đó chúng ta phải dựa vào dân, sau này Đảng ta đã vận dụng truyền thống của cha ông trong quá trình bảo vệ Tổ quốc.
Vấn đề này hiện được vận dụng thế nào? Tôi xin nêu mấy ý như sau:
Thứ nhất, Đảng ta đặc biệt quan tâm đến việc xây dựng lòng dân, làm sao để yên dân. Đó là yêu cầu cơ bản trong giữ nước. Sau khi hòa bình, chúng ta đã miễn thuế nông nghiệp cho nông dân. Đây là chính sách rất hay để tạo niềm tin của nhân dân đối với Đảng. Nhân dân đã đóng góp, hy sinh rất nhiều nên hòa bình cố gắng mang lại cho dân những lợi ích đó. Tôi cho rằng đấy là chính sách rất đúng đắn.
Thứ hai, đánh giá đúng và thấy rõ sức mạnh bảo vệ Tổ quốc là sức mạnh tổng hợp và nhận thức một cách thấu đáo, sức mạnh đó bao gồm cả sức mạnh bên trong, bên ngoài. Đặc biệt là khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đó là nhân tố quyết định cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.
Trong thực tế, Đảng và Nhà nước ta đã triển khai rất nhiều biện pháp nhằm củng cố mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân, củng cố lòng tin của nhân dân đối với Đảng. Ở đây, có rất nhiều bằng chứng cụ thể như hiện nay chúng ta đang làm. Thậm chí Tổng Bí thư chỉ đạo rất quyết liệt, đó là chống tham nhũng, chính là củng cố lòng tin của nhân dân đối với Đảng. Lòng tin của nhân dân có cao lên và dân có tin Đảng thì xã hội mới tiếp tục ổn định, có thể tập trung cho các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội và sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.
Đảng, Nhà nước ban hành rất nhiều chủ trương thực hiện theo đúng lời Bác Hồ dạy, tức là việc gì có lợi cho dân thì ta làm, việc gì có hại cho dân thì ta tránh. Những chính sách mới ban hành, tất nhiên không thể tránh khỏi có chính sách chưa được sát thực tế nhưng về cơ bản, đường lối hướng tới phục vụ nhân dân và hướng tới tạo điều kiện cho dân. Chính cái đó tạo ra môi trường, dân tin Đảng, Đảng tin dân. Đặc biệt, đẩy mạnh cuộc chiến phòng chống suy thoái về đạo đức, lối sống như Đảng ta đã thực hiện trong thời gian vừa qua, chống tự diễn biến, tự chuyển hóa trong nội bộ là tiềm ẩn nguy cơ dẫn đến mất ổn định trong xã hội.
Tập trung phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, đặc biệt là ở vùng sâu, vùng xa. Nếu đi vào vùng sâu, vùng xa hoặc vùng miền núi, hải đảo đã có sự khác biệt rất lớn, đó là vấn đề về xây dựng điện - đường - trường - trạm. Đồng thời, đưa con em các dân tộc đến trường, được nâng cao rất nhiều về văn hóa. Tôi cho rằng, đó là những chính sách cực kỳ quan trọng trong vấn đề yên dân mà Đảnh ta đã lãnh đạo, nâng tầm trong kinh nghiệm, truyền thống của cha ông.
Nhà báo Diệu Bình: Tư tưởng “lo giữ nước từ khi nước chưa nguy” của ông cha ta và “giữ nước từ sớm, từ xa” có nội hàm thế nào và hình thành ra sao, thưa Thiếu tướng, GS TS Nguyễn Hồng Quân?
Thiếu tướng, GS TS Nguyễn Hồng Quân: Trước tiên nói về điều kiện hình thành tư tưởng này, phải nói là vị trí địa lý của chúng ta rất có ý nghĩa chiến lược ở Đông Nam Á – nơi mà các cường quốc trên thế giới, không phải bây giờ mà từ xa xưa, cách đây hàng chục thế kỷ đã có ý nhòm ngó, muốn xâm chiếm Việt Nam.
Nếu xét về lịch sử Việt Nam, ngay từ năm 179 trước Công nguyên, đất nước ta đã bị ngoại bang xâm lược. Cuộc xâm lược đó tạo nên lịch sử người dân Việt Nam luôn luôn phải đấu tranh với thiên tai, thiên nhiên và đấu tranh với kẻ thù để tồn tại. hay nói rộng ra, quá trình dựng nước của chúng ta đi đôi với lịch sử quá trình giữ nước.
Có nhà thơ nói rất hay, lịch sử của Việt Nam là lưng đeo gươm, tay mềm mại vuốt hoa, có nghĩa là đời sống văn hóa tinh thần gắn liền với đời sống quân sự. Cuộc kháng chiến không phải bây giờ mới có mà có từ hai nghìn năm trước đây và đến bây giờ vẫn tiếp tục. Trong thế kỷ XIII, có kẻ thù đã bị chúng ta đánh bại mà còn tìm cách lăm le, quay lại Việt Nam không phải một lần mà hai lần. Đến lần thứ ba, mới chịu rút, ba lần mới chịu thất bại.
Âm mưu của các thế lực bên ngoài rất dai dẳng, muốn xâm chiếm, thâu tóm đất nước ta không chỉ về tài nguyên, thiên nhiên, đất đai màu mỡ mà là vị trí chiến lược. Ai làm chủ khu vực này sẽ có tác động, làm chủ ở các khu vực khác nên các thế lực thực dân, đế quốc trong cả thế kỷ qua tìm cách thay nhau áp đặt ách thống trị lên đất nước chúng ta.
Kể cả bây giờ, nếu không cảnh giác cũng sẽ có những cường quốc sẵn sàng mượn đất, mượn lãnh thổ chúng ta để đặt căn cứ quân sự. Hoặc mượn vị thế của chúng ta, lôi kéo thêm lực lượng để thắng đối phương trong cuộc cạnh tranh của họ. Họ thắng như thế, chúng ta cũng chẳng được gì. Họ thua, trong mọi trường hợp chúng ta vẫn được vẹn nguyên. Vì thế, phải lo phòng thủ đất nước từ khi nước chưa nguy, phải lo giữ nước từ sớm, từ xa như chúng ta đang trao đổi.
Thứ hai, tư tưởng lo giữ nước từ khi nước chưa nguy là tư tưởng chủ động phòng thủ rất cơ bản, rất lâu dài. Khi đất nước có hòa bình, chúng ta phải tính xa hơn, chứ không phải cứ hòa bình mãi mãi, vĩnh viễn. Phải luôn luôn chuẩn bị sẵn sàng vật chất, tinh thần, phòng khi đất nước lâm nguy. Đây là bài học mà mọi người dân sống trên đất nước Việt Nam phải luôn ghi nhớ.
Nội hàm của tư tưởng này là gì? Theo tôi là có 4 ý.
Ý thứ nhất: Chúng ta phải luôn luôn cảnh giác, chủ động nắm vững tình hình, phân tích, nghiên cứu và đưa ra những dự báo xác đáng, có như thế mới nhận diện ai là kẻ thù. Trong đối tác có yếu tố đối tượng và trong đối tượng có yếu tố đối tác. Trong yếu tố đối tượng, không phải lúc nào họ cũng chống đối ta mà có thể hợp tác được. Đây chính là tinh thần của Nghị quyết Trung ương lần thứ 8 Khóa XI đã chỉ rõ. Chúng ta nắm chắc đối tác, đối tượng nhưng đồng thời nắm sự chuyển biến linh hoạt trong nhân tố đối tác, đối tượng này để xử lý.
Ý thứ hai: Chúng ta chủ động xây dựng tiềm lực đất nước, xây dựng các tiềm lực chính trị, kinh tế, chính trị tinh thần, tiềm lực khoa học công nghệ, tiềm lực quân sự quốc phòng và bây giờ là tiềm lực đối ngoại. 5 tiềm lực này tạo nên sức mạnh tổng hợp quốc gia của Việt Nam. Củng cố, tăng cường quốc phòng toàn dân, củng cố tăng cường thế trận an ninh nhân dân, xây dựng thế trận lòng dân như Đại tá Vũ Văn Khanh đã nói.
Mục đích là xây dựng thế trận lòng dân, khi có biến là triệu người như một, đồng lòng theo tiếng gọi của Đảng, bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ nhân dân. Xây dựng thế trận lòng dân là mục tiêu cuối cùng của chúng ta. Xây dựng lực lượng vũ trang làm nòng cốt, nòng cốt là quân đội nhân dân, đến năm 2025 trở đi xây dựng quân đội hiện đại, năm 2030 xây dựng quân đội thực sự hiện đại. Đồng thời xây dựng lực lượng dân quân tự vệ vững mạnh, rộng khắp.
Ý thứ ba: Phát huy sức mạnh dân tộc, kết hợp với sức mạnh thời đại, tạo thành sức mạnh tổng hợp của quốc gia. Chúng ta phải biết xem xét tình hình thế giới như thế nào? Khu vực ra sao? Cái gì có thể nguy cơ đến chúng ta, cái gì có thể biến nguy thành cơ để tận dụng trong tình hình thế giới hiện nay và chúng ta nhân lên sức mạnh của mình. Ngoài sức mạnh dân tộc, kết hợp với sức mạnh thời đại là khi có thêm hàng trăm, hàng vạn người đứng về phía chúng ta và cùng có tiếng nói với chúng ta. Rõ ràng, thế của chúng ta đã khác.
Ý thứ tư: Phải phát huy lợi thế đối ngoại. Đối ngoại có ba trụ cột: Ngoại giao Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân. Chúng ta phát huy cả ba trụ cột này, thực hiện hòa hiếu với các nước láng giềng. Đôi khi người ta nói rằng, nước lớn mới là quan trọng, láng giềng là nước nhỏ làm sao phải đặt lên đầu. Thế nhưng, quan điểm của Bộ Quốc phòng, của những người cầm súng, nếu ở biên giới của chúng ta có chuyện gì nóng – lạnh, nó sẽ ảnh hưởng đến ngay cuộc sống của nhân dân ở các vùng biên và từ đó lan tỏa đến các địa phương của Việt Nam, tác động trực tiếp đến an ninh, quốc phòng của chúng ta.
Tiếp đến là giữ cân bằng quan hệ với các nước lớn, chúng ta không chọn bên, nhất là trong hoàn cảnh hiện nay, chúng ta không nói đứng về ai nhưng giữ quan hệ cân bằng với nước lớn. Nước lớn nào cũng cần chúng ta. Chúng ta giữ gìn, phát triển mối quan hệ với tất cả các nước lớn, như thế là hữu nghị, là cần thiết trong chiến lược của mình. Các nước ra sức tranh thủ và chúng ta phải biết tận dụng sự tranh thủ đó để phát triển. Nước A có thế mạnh này, nước B có thế mạnh kia, chúng ta tranh thủ hợp tác để phát huy, bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc trên cơ sở Hiến chương Liên hiệp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác cùng có lợi.
Từ đó cho thấy, tư tưởng lo giữ nước từ khi nước chưa nguy của Đảng ta, tư tưởng bảo vệ nước từ sớm, từ xa của ông cha ta là chiến lược mang tính chủ động, không phải thụ động phòng thủ. Nó là chiến lược tổng hòa giữa các nhân tố bên trong và bên ngoài. Đề cao sức mạnh tổng hợp, chú trọng củng cố, tăng cường sức mạnh quốc gia, trong đó có sức mạnh nòng cốt là sức mạnh quốc phòng, sức mạnh quân sự. Nó gắn quốc phòng toàn dân với an ninh nhân dân, đối phó với mọi tình huống để giữ vững hòa bình, bảo vệ cuộc sống yên bình của nhân dân. Đây là chiến lược rất phù hợp trong bối cảnh tình hình quốc tế, khu vực hiện nay, phải lo giữ nước từ khi nước chưa nguy, lo bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa.
Nhà báo Diệu Bình: Tư tưởng “Giữ nước từ khi nước chưa nguy” trong lịch sử dân tộc, chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa được Đảng ta vận dụng thế nào vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nhất là từ khi đổi mới đất nước và đặc biệt là từ khi thực hiện Nghị quyết Trung ương 8 Khóa XI về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, thưa Đại tá, Thạc sĩ Vũ Văn Khanh?
Đại tá, Thạc sĩ Vũ Văn Khanh: Những trao đổi của Thiếu tướng Nguyễn Hồng Quân đã có phần nói về vấn đề triển khai của Đảng ta trong thực hiện Nghị quyết Trung ương XIII Khóa IX và Khóa XI. Tôi xin bổ sung thêm ý này, trong thời đại Hồ Chí Minh, kế sách giữ nước từ sớm, từ xa, bảo vệ nước từ khi nước chưa nguy tiếp tục kế thừa truyền thống dân tộc và nâng lên một tầm cao mới.
Lúc sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói, “Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một. Sông có thể cạn, núi có thể mòn nhưng chân lý đó không bao giờ thay đổi”. Bác căn dặn chúng ta: “Các Vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”. Đặc biệt, có một câu Bác dặn rất quan trọng, đó là “Bất kỳ hòa bình hoặc chiến tranh, chúng ta cũng phải nắm vững, chủ động thấy trước, chuẩn bị trước”. Đó có thể nói là tư tưởng cốt lõi trong việc giữ nước từ khi nước chưa nguy.
Thấm nhuần quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những bài học kinh nghiệm, quý báu của lịch sử dân tộc, Đảng ta vận dụng rất sáng tạo trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, mục tiêu để không bị bất ngờ về chiến lược khi xảy ra các tình huống đối với bảo vệ Tổ quốc.
Trong Nghị quyết Trung ương 8 Khóa XI cũng như Kết luận của Bộ Chính trị về vấn đề bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa được nghiện cứu, khái quát, cụ thể hóa và triển khai toàn diện trong các lĩnh vực, trở thành tư tưởng chỉ đạo, hành động xuyên suốt của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân.
Lần đầu tiên, cụm từ “bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa” được chính thức sử dụng trong Văn kiện của Đảng chính là Nghị quyết số 24 ngày 16/4/2018 của Bộ Chính trị về Chiến lược quốc phòng Việt Nam. Trong thực tế, chúng ta đã triển khai rất nhiều quan điểm bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, rồi giữ nước từ khi nước chưa nguy của Đảng ta.
Trong điều kiện ngày nay như Thiếu tướng Nguyễn Hồng Quân nói, nội hàm về bảo vệ Tổ quốc từ sớm từ xa đã có điểm mới. Đặc biệt nó không còn ở trong biên giới lãnh thổ nữa, chúng ta không chỉ bảo vệ biên giới, lãnh thổ mà các yếu tố bên trong có nhiều sự đa dạng hơn, phòng ngừa, phát hiện, triệt tiêu các nhân tố bất lợi. Đảng ta rất quan tâm đến vấn đề tổng kết thực tiễn sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Đặc biệt là quan tâm đến vấn đề nghiên cứu, dự báo về quốc phòng an ninh, thực hiện phương châm “Dĩ bất biến, ứng vạn biến”. Trong đó coi lợi ích quốc gia, dân tộc là trên hết, thực hiện chính sách mềm dẻo, linh hoạt, giữ trong ấm, ngoài êm và giữ nước từ khi nước chưa nguy.
Ngay từ thời bình, phải tổ chức phòng thủ, phòng ngừa chủ động, tích cực, chuẩn bị về mọi mặt, về chính trị, về kinh tế, về quốc phòng an ninh đối ngoại chứ không phải nước đến chân mới nhảy. Đặc biệt, Đảng ta đã rất quan tâm xử lý, giải quyết có hiệu quả các nhân tố tiềm ẩn bất ổn về chính trị, an ninh. Ví dụ như kiện cáo đất đai, những vụ kiện kéo dài là những nhân tố tiềm ẩn mà chúng ta đã giải quyết rất tốt vấn đề này.
Đặc biệt nữa, chúng ta giải quyết, từng bước khắc phục tư tưởng coi trọng phát triển kinh tế, xem nhẹ quốc phòng an ninh. Trong thời gian qua, các doanh nghiệp khi làm ăn với nước ngoài có những biểu hiện chú trọng về kinh tế, xem nhẹ quốc phòng an ninh. Thậm chí đất quốc phòng an ninh cũng bị lấn chiếm.
Một điểm nữa, Đảng ta vận dụng rất hiệu quả, đó là tăng cường công tác đối ngoại với tất cả các nước theo tinh thần Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy, thành viên trong cộng đồng quốc tế. Kiên quyết, kiên trì phương châm giải quyết mọi vấn đề bằng biện pháp hòa bình trên cở sở luật pháp quốc tế và Hiến chương Liên hiệp quốc. Đó là những cốt lõi vận dụng tư tưởng giữ nước từ khi nước chưa nguy.
Tận dụng hỗ trợ quốc tế, mở rộng hợp tác công nghệ quốc phòng
Nhà báo Diệu Bình: Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, tranh thủ sự ủng hộ của bạn bè quốc tế là yếu tố tất yếu trong công cuộc bảo vệ Tổ quốc. 10 năm qua, việc đẩy mạnh hội nhập quốc tế, tăng cường công tác đối ngoại, nâng cao uy tín, vị thế của đất nước giúp ích thế nào cho Việt Nam trong việc tận dụng nguồn lực từ bên ngoài, tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế? Xin mời Thiếu tướng, GS TS Nguyễn Hồng Quân.
Thiếu tướng, GS TS Nguyễn Hồng Quân: Mười năm qua, chúng ta kế thừa và phát huy những thành tựu của đất nước trong mấy chục năm trước. Về quan hệ quốc tế, có mấy điểm nhấn nổi bật sau:
Thứ nhất: Tăng cường quan hệ hữu nghị, hiểu biết lẫn nhau giữa Việt Nam với các nước. Trước đây chúng ta có một mặt trận nhân dân thế giới ủng hộ Việt Nam, ngày nay tiếp tục có nhiều nước ủng hộ Việt Nam xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Chúng ta có quan hệ ngoại giao với 189 nước trong tổng số 193 nước thành viên của Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc, có quan hệ đối tác chiến lược với 16 quốc gia và 11 nước có quan hệ đối tác toàn diện. Việt Nam có 224 thị trường nước ngoài, có quan hệ với 5 nước Ủy viên thường trực của Hội đồng bảo an Liên hiệp quốc. Đây là quan hệ có chất lượng chứ không phải như trước, trong 5 nước thường trực Hội đồng Bảo an có nước chưa bình thường hóa, thậm chí có lúc ở hai trận tuyến khác nhau. Tuy nhiên, 10 năm qua, cả 5 nước trong Hội đồng Bảo an đều cùng là bạn của chúng ta. Đây là điểm rất mới.
Chúng ta là thành viên của hầu hết các tổ chức quốc tế và khu vực, kể cả những tổ chức như: Giải trừ vũ khí hạt nhân, chống chạy đua vũ trang, tổ chức biến đổi khí hậu, ASEAN hay tham gia vào các công ước quốc tế. Đặc biệt là chúng ta vừa kỷ niệm 45 năm Việt Nam là thành viên của Liên hiệp quốc.
Trong 10 năm qua, Việt Nam là thành viên rất tích cực của Liệp hiệp quốc, đóng góp tích cực cho việc thực hiện tiêu chí của Liên hiệp quốc đưa ra. Thế giới hiểu rõ hơn về một Việt Nam không chỉ anh dũng trong chiến đấu trước đây mà còn là đối tác rất cởi mở, độ lượng, sáng tạo trong xây dựng hòa bình hiện nay, là đất nước rất kiên cường trong bảo vệ độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ trong tình hình mới.
Thứ hai là tận dụng hỗ trợ của quốc tế để xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao. Nếu trước đây, chúng ta gửi cán bộ đi học tập ở các nước xã hội chủ nghĩa, bây giờ gửi tất cả các nơi trên thế giới. Riêng ngành quốc phòng, có xấp xỉ 40 nước đào tạo cho quốc phòng Việt Nam. Chưa bao giờ có thuận lợi như vậy trong việc đào tạo phi công lái máy bay, điều khiển tầu ngầm, tác chiến công nghệ cao… Tất cả những điều đó đều thực hiện đúng chỉ đạo của Bác Hồ thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân tháng 12/1944 là người trước, súng sau. Có nghĩa là quan tâm đào tạo con người trước khi con người đó sử dụng vũ khí. Chúng ta hiểu rằng, vũ khí là quan trọng nhưng con người mới là quyết định, vũ khí không thể thay thế con người. Mặt khác nếu chỉ có con người cũng không được, ngoài việc đào tạo con người, chúng ta phải chú ý vũ khí.
Hiện nay, chúng ta hợp tác đào tạo kỹ thuật, về thực thi pháp luật, hợp tác đấu tranh để bảo vệ chủ quyền. Ngoài số anh/chị/em đi học nước ngoài về, chúng ta chọn một số đó để tiếp tục đào tạo anh/chị/em trong nước tiếp thu những kiến thức hiện đại của thế giới, phục vụ cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Có nghĩa chúng ta có đội ngũ cán bộ tự tin, có năng lực, ngày càng tích lũy kinh nghiệm, vững vàng và công tác hiệu quả trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Thứ ba: Tận dụng nguồn vốn khoa học công nghệ của các nước và trình độ quản lý tiên tiến để đẩy mạnh trao đổi công nghệ, tăng cường nghiên cứu, tự sản xuất, trong nước. Trong 10 năm quá, tiếp tục thu hút đầu tư nước ngoài rất lớn, hình thành những khu công nghiệp chất lượng cao ở Bắc Ninh, Thái Nguyên hay ở đồng bằng Nam Bộ, đồng bằng Đông Nam Bộ (Bình Long, Bình Dương, Bình Phước)… Tất cả những khu công nghiệp đó là đầu tầu kinh tế của cả nước. Nếu xét về quân đội, chúng ta cũng tận dụng được những kinh nghiệm quý ngoài các nước xã hội chủ nghĩa, tranh thủ kinh nghiệm của Isarel, Pháp, Đức, Anh... để sản xuất công nghiệp quốc phòng, mua sắm trang thiết bị công nghiệp quốc phòng.
Thứ tư: Về công nghiệp quốc phòng, chúng ta đầu tư trang bị và tự sản xuất một phần nhu cầu vũ khí trang bị của quân đội. Hiện nay, ngoài những vũ khí hiện đại do Liên Xô và bây giờ là Nga sản xuất, chúng ta còn đa dạng hóa vũ khí trang bị của các đối tác khác gọi là hệ 2 (các nước tư bản chủ nghĩa) như trang bị máy bay của Pháp, các thiết bị của Anh hay thủy phi cơ của Canada. Tất cả là nhờ hợp tác quốc tế, nhờ quan hệ đối ngoại mà tiếp cận được. Hoặc trang bị những vũ khí hiện đại khác của Isarel, mở rộng hợp tác công nghệ quốc phòng với Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ… để trang bị cho cảnh sát biển những phương tiện cũng như học tập kinh nghiệm các nước bạn để tăng cường năng lực thực thi chủ quyền trên biển. Đồng thời, tiếp thu kinh nghiệm, số phương tiện này để tăng cường phương tiện trang bị của lực lượng hải quân. Tranh thủ được quan hệ hợp tác quốc tế, chúng ta có cả những hệ thống thu tín hiệu từ vệ tinh và quan sát Biển Đông, quan sát từ vệ tinh, quan sát trái đất… Những vấn đề này rất tốt cho công tác chỉ huy tác chiến. Đấy là điều rất quan trọng.
Cuối cùng, xây dựng được quan hệ song phương và đa phương. Hiện nay, một mặt thực hiện chính sách quốc phòng 4 không như Đại tá Vũ Văn Khanh đã nói ban đầu, tuy nhiên, trong 4 không cũng có cái 1 tùy, đấy là phát triển quan hệ quốc phòng với các đối tác và khi cần thiết, phải tăng cường có thêm nhiều bạn bè, cùng hoàn cảnh, cùng chia sẻ kinh nghiệm và cùng chia sẻ quyết tâm với chúng ta. Bây giờ chúng ta có mạng lưới quan hệ song phương, đa phương chặt chẽ, đáp ứng nhu cầu bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Nhà báo Diệu Bình: Thưa Đại tá, Thạc sĩ Vũ Văn Khanh, để góp phần vào thành công của Chiến lược bảo vệ Tổ quốc, công tác chủ động nắm bắt, nghiên cứu, phân tích, dự báo chính xác tình hình thế giới, khu vực, trong nước có vai trò như thế nào và đã được tiến hành ra sao?
Đại tá, Thạc sĩ Vũ Văn Khanh: Khi nói đến công tác nghiên cứu, dự báo, chúng ta thấy đây là nội dung hết sức quan trọng. Bởi có nghiên cứu, dự báo đúng thì mới có thể tham mưu đúng để Đảng và Nhà nước có những quyết sách phù hợp giải quyết các tình huống quốc phòng an ninh. Nếu không dự báo, tham mưu đúng, rõ ràng dẫn đến tình huống bị động và gặp rất nhiều khó khăn trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Chính vì nhận thức được điều này nên Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến công tác nghiên cứu, dự báo chiến lược và đã triển khai nhiều biện pháp mang tính chất đồng bộ để thực hiện công tác nghiên cứu dự báo. Đó là nghiên cứu, phân tích, đánh giá đúng tình hình thế giới, khu vực, trong nước để tìm ra được những nhân tố mới, có lợi cho đất nước, những điều có thể xây dựng sức mạnh bảo vệ Tổ quốc của chúng ta. Đặc biệt, nghiên cứu đúng, dự báo đúng về đối tượng, đối tác thì sẽ có những quyết sách lớn ngay từ thời bình trong việc chuẩn bị sức mạnh quân sự, chuẩn bị tổ chức lực lượng, thế trận phòng thủ đối với từng đối tác, đối tượng cụ thể.
Một điểm nữa trong thời đại ngày nay, đó là các hình thái chiến tranh mới. Chiến tranh ngày nay không còn đơn giản chỉ là trên mặt đất, trên không, trên biển như xưa nữa. Bây giờ chúng ta có không - bộ - biển - điện từ - vũ trụ và không gian mạng. Như vậy có nghĩa là có 6 môi trường tác chiến, ta gọi là tác chiến đa môi trường. Việc dự báo đúng xu thế phát triển sẽ có ứng phó cụ thể, kịp thời. Đảng ta cũng có chỉ đạo, trực tiếp là Bộ Quốc phòng đã triển khai rất cụ thể trong việc nghiên cứu dự báo này.
Việc nghiên cứu dự báo về âm mưu thủ đoạn của phản động, các thế lực thù địch cũng rất là quan trọng. Không chú ý đến những nhân tố tiềm ẩn này, có thể nói rất nguy cơ đối với chế độ chính trị cũng như ổn định xã hội, công cuộc bảo vệ Tổ quốc.
Chúng ta đã chủ động tổng kết thực hiện nghiên cứu lý luận, ban hành các nghị quyết, kết luận về chiến lược, về quân sự quốc phòng, đường lối nghệ thuật quân sự, đáp ứng yêu cầu ngày càng tốt hơn đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc về trước mắt và lâu dài. Đặc biệt, đã chủ động nghiên cứu dự báo chiến lược về hội nhập quốc tế, về đối ngoại. Đây có thể nói là thành tựu trong thời gian qua, đóng góp rất lớn trong công tác đối ngoại cả song phương và đa phương, đạt được những hiệu quả thiết thực, góp phần thực hiện thành công bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa.
Chúng ta chủ động tham gia các diễn đàn, hội nghị quốc tế để thể hiện Việt Nam là thành viên có trách nhiệm đối với cộng đồng quốc tế. Đồng thời thông qua đó, thu thập được thông tin, hiểu được bạn đang muốn gì, đang cần gì thì chúng ta điều chỉnh được những đối sách phù hợp.
Tôi cho rằng, việc bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa có vai trò như thế, chúng ta đã tiến hành cụ thể như vậy trong thực tế và đã thu được rất nhiều kết quả.
Nhà báo Diệu Bình: Thưa Thiếu tướng, GS TS Nguyễn Hồng Quân, dự báo những năm tới tình hình thế giới, khu vực sẽ diễn biến rất phức tạp, có nhiều yếu tố không thuận lợi, dễ gây mất ổn định. Ông nghĩ sao về dự báo này. Xin ông đưa ra những phân tích về yếu tố này với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc?
Thiếu tướng, GS TS Nguyễn Hồng Quân: Nhận định về yếu tố không thuận lợi, dễ gây mất ổn định thì đúng nhưng tôi muốn bổ sung, ngoài ra còn có yếu tố khó dự báo. Tình hình thế giới và khu vực hiện nay diễn biến phức tạp, có không ít yếu tố không thuận lợi, khó dự báo và dễ gây mất ổn định.
Chúng ta thấy rất rõ, kinh tế, đối mặt với rất nhiều khó khăn. Hiện nay lạm phát gia tăng, giá xăng dầu, giá nhiên liệu tăng. Theo số liệu gần đây là 816 triệu người không có đủ bữa ăn thứ hai trong ngày. Châu Âu mùa đông đến gần mà năng lượng thì thiếu, khí thiếu, điện thiếu. Nhiều người phải tích trữ quần áo ấm, tích trữ nến để chống chọi qua mùa đông lạnh với nhiệt độ là -20 độ C. Tôi cho rằng rất là khó khăn.
Kinh tế thế giới có thể tách thành 2 hệ thống song song nhau, tiền tệ riêng, thị trường riêng, cơ chế thanh toán riêng. Có nghĩa là chỉ có nước lớn mới có lợi ở chuyện này, các nước vừa và nhỏ chật vật trong hệ thống kinh tế thế giới hỗn tạp. Bên cạnh đó, vấn đề đầu tư sẽ có thể bị ảnh hưởng, thị trường có thể bị thu hẹp, chủ nghĩa bảo hộ sẽ tăng lên và cạnh tranh tăng rất mạnh. Đó là về kinh tế.
Đối với chúng ta, tranh chấp trên Biển Đông vẫn còn đó, những tranh chấp bất ổn vùng biển Tây Nam đã và có thể xuất hiện nhiều hơn. Biên giới chúng ta còn 16% chưa được xác định xong với các nước ở phía Tây Nam, một số chỗ chưa được tôn tạo, tăng dầy cột mốc theo kế hoạch. Một số địa bàn chiến lược trọng điểm của đất nước còn những nhân tố gây bất ổn định.
Bên cạnh đó, những nguy cơ mà Đại hội Đảng XIII chỉ ra như: Nguy cơ tụt hậu, nguy cơ rơi vào bẫy thu nhập trung bình, nguy cơ về tham nhũng, quan liêu, nguy cơ suy thoái tư tưởng chính trị - đạo đức – lối sống, nguy cơ tự diễn biến, tự chuyển hóa. Các thế lực thù địch chống phá, ly khai vẫn ngấm ngầm, quyết liệt… chưa phải dẹp được hết, vẫn còn nhiều vấn đề phức tạp.
Bên cạnh đó, các vấn đề an ninh phi truyền thống như là biến đổi khí hậu, bão lũ, nước biển dâng… đe dọa đến cuộc sống yên lành của người dân. Rồi triều cường, sạt lở đất, công trình dân sự, công trình quân sự cũng bị ảnh hưởng do tác động của tàn phá môi trường. Rồi dịch bệnh, đói nghèo. Dịch Covid-19 tạm thời dừng lại nhưng những dịch bệnh khác đang rình rập. Tội phạm xuyên biên giới, tội phạm trong nội địa cũng chưa yên.
Tất cả những điều đó đều có tác động đến nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, cụ thể:
Thứ nhất, xuất hiện những vấn đề mới về quốc phòng, về an ninh, là không gian chiến lược mới. Bây giờ là 6 môi trường tác chiến, chưa kể an ninh phi truyền thống, là tội phạm sinh sôi trong nước, ngoài nước và xuyên quốc gia. Chuyện đối tác mới, đối tượng mới và hình thái chiến tranh mới… Tất cả đã tác động đến việc xây dựng lực lượng thế nào, trang bị, huấn luyện ra sao để có thể giành chiến thắng.
Thứ hai, phức tạp hơn trong xử lý tình huống khi thế giới phân cực. Trước đây, khi tình hình thế giới căng thẳng đi, chúng ta xử lý vấn đề còn dễ đạt được đồng thuận. Bây giờ xử lý vấn đề được lòng bên này lại ảnh hưởng bên kia, như thế sẽ khó khăn trong quan hệ đối ngoại cũng như trong xử lý các tình huống quốc phòng, an ninh.
Thứ ba, cần tăng cường huấn luyện diễn tập theo các phương án ngày càng sát thực tế, làm sao có thể chiến thắng nếu tình huống đó xảy ra thật. Chiến tranh xung đột ly khai, bạo loạn vẫn đang diễn ra, cần phải có phương án xử lý dứt điểm.
Tất cả điều đó đòi hỏi phải nâng cao tinh thần cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu. Khi đã chiến đấu là phải giành chiến thắng, nếu không sẽ trở thành mục tiêu của đối phương tiêu diệt chúng ta.
Chúng ta phải thường xuyên cập nhật tình hình và phương án tác chiến đã có. Chiến lược quân sự đã có nhưng không phải một chiến lược dùng cho 10 năm, 20 năm mà phải cập nhật diễn biến mới, hình thái chiến tranh mới trên thế giới phát triển và bám theo đó để thực hiện.
Cuối cùng, phải nâng cao tinh thần tự lực, tự cường, không thể dựa dẫm vào nước ngoài. Chúng ta hợp tác để tranh thủ sự hỗ trợ của nước ngoài, chứ không phải dựa vào nước ngoài để bảo vệ chủ quyền trên biển, bảo vệ chủ quyền trên biên giới. Đồng thời đa dạng hóa các đối tác công nghiệp quốc phòng để đảm bảo trang bị vũ khí, đảm bảo không bị động trong mọi tình huống.
Thưa quý vị và các bạn, trong thời gian ngắn của chương trình, hai vị khách mời đã chia sẻ rất nhiều thông tin hữu ích, bao trùm và rõ nét về những thành tựu của Việt Nam sau 10 năm thực hiện Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Một lần nữa cảm ơn hai vị khách mời đã dành thời gian tham gia chương trình. Xin chào, hẹn gặp lại qúy vị và các bạn trong các chương trình sau.
Đức Yên, Thu Hằng, Thành Huế, Ngân Phương, Thanh Hùng, Ngọc Ánh