Ông Đoàn Quang Hoan cho biết, cuối năm 1990, cơ chế quản lý viễn thông theo thị trường đã được vận hành, nhưng quy định về quản lý tài nguyên tần số vẫn trên cơ sở hành chính “xin - cho”. Tại thời điểm đó, Việt Nam ra nhập WTO cần đưa ra Luật Tần số để minh bạch các chính sách quản lý, thúc đẩy ứng dụng công nghệ hiện đại sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên tần số. Luật Tần số Vô tuyến điện được Quốc hội khóa XII thông qua tại kỳ họp thứ 6 ngày 23/11/2009 và có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2010, có ý nghĩa to lớn trong hoạt động quản lý và phát triển ngành vô tuyến điện.
Phân định rõ trách nhiệm quản lý tần số
Ông Đoàn Quang Hoan cho hay, Luật Tần số Vô tuyến điện phân định rõ trách nhiệm quản lý nhà nước của Bộ, cơ quan quản lý chuyên ngành trong việc quản lý tần số vô tuyến điện, xác định vị trí của thanh tra chuyên ngành tần số vô tuyến điện; đồng thời quy định việc quản lý tần số trong quốc phòng, an ninh thông qua cơ quan chuyên trách thuộc Bộ Quốc phòng, Bộ Công an nhằm thống nhất quản lý việc sử dụng tần số của hai Bộ và tạo thuận lợi cho việc phối hợp giữa các bộ ngành.
Các quy định mới của Luật về quy hoạch tần số, nguyên tắc cấp phép nhằm tạo môi trường pháp lý thuận lợi hơn cho việc ứng dụng các công nghệ vô tuyến mới có hiệu quả sử dụng tần số cao hơn, dành băng tần cho các công nghệ và dịch vụ mang lại lợi ích kinh tế xã hội nhiều hơn, đồng thời hạn chế việc sử dụng băng tần quý hiếm cho các công nghệ lạc hậu kéo dài gây lãng phí nguồn tài nguyên tần số. Qua đó, thúc đẩy sự phát triển của thông tin vô tuyến điện, thúc đẩy ứng dụng các công nghệ hiện đại, sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên tần số.
Luật bổ sung hình thức cấp phép theo cơ chế thị trường thông qua việc thi tuyển, đấu giá quyền sử dụng tần số, cho phép chuyển nhượng quyền sử dụng đối với tần số được cấp phép qua đấu giá nhằm mục đích lựa chọn các doanh nghiệp có năng lực thực sự, cung cấp dịch vụ tốt nhất, sử dụng hiệu quả tài nguyên phổ tần số vô tuyến điện. Qua đó, nâng cao tính minh bạch trong cấp phép các băng tần quý hiếm, thị trường dịch vụ thông tin vô tuyến điện sẽ trở nên lành mạnh và có tính cạnh tranh thực sự.
Những quy định của Luật về phương thức cấp phép (trong đó có cấp phép điện tử), điều kiện được cấp phép hoặc cho phép cho thuê, cho mượn thiết bị trong một số trường hợp nhằm tạo điều kiện thuận lợi, linh hoạt cho tổ chức, cá nhân sử dụng tần số; mở rộng các băng tần sử dùng chung không cần cấp phép nhưng vẫn đảm bảo mục tiêu quản lý và hiệu quả sử dụng phổ tần.
Luật quy định rõ trách nhiệm của tổ chức, doanh nghiệp và cơ quan quản lý tần số trong về đăng ký, phối hợp tần số quốc tế nhằm tạo điều kiện tốt hơn cho việc bảo vệ chủ quyền, quyền lợi của Việt Nam về tần số và quỹ đạo vệ tinh.
Luật đưa ra các qui định về tuân thủ quy chuẩn an toàn bức xạ vô tuyến điện và yêu cầu phải kiểm định các công trình phát sóng vô tuyến điện trước khi đưa vào sử dụng, đồng thời quy định trách nhiệm của cơ quan quản lý, nhà sản xuất, nhập khẩu và người sử dụng về vấn đề này để bảo đảm an toàn về bức xạ điện từ trường.
Luật Tần số đã sớm đi vào thực tiễn
Ông Đoàn Quan Hoan cho biết, Luật Tần số vô tuyến điện là một trong số ít luật xây dựng theo hướng quy định tương đối cụ thể, rất nhiều điều khoản có thể áp dụng trực tiếp không cần hướng dẫn; những nội dung mới hoặc những quy định về quy trình, thủ tục, tiêu chuẩn, quy chuẩn…, Luật giao cho Thủ tướng Chính phủ hoặc các Bộ ngành có liên quan quy định. Trong hơn 5 năm, những quy định của Luật cần phải có văn bản hướng dẫn thực hiện đều đã được các cơ quan có thẩm quyền ban hành. Cụ thể đã có 02 Nghị định, 05 Quyết định của Thủ tướng, 46 Thông tư, Quyết định của Bộ trưởng và 80 quy chuẩn đã được xây dựng, ban hành.
Ông Đoàn Quang Hoan cho biết, quy hoạch tần số vô tuyến điện đã mở đường cho sự phát triển của thông tin vô tuyến điện Việt Nam. Nhờ làm tốt công tác quy hoạch tần số vô tuyến điện, qua đó góp phần thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ thông tin di động và phát thanh truyền hình trong thời gian vừa qua, mở đường cho sự phát triển các dịch vụ băng thông rộng, Internet tốc độ cao, tạo tiền đề cho sự phát triển xã hội thông tin, Chính phủ điện tử di động trong tương lai.
Theo thống kê của Cục Tần số Vô tuyến điện, hàng năm, số lượng mạng thông tin vô tuyến điện dùng tại các sân bay, siêu thị, nhà hàng, công trường xây dựng, dịch vụ taxi, bảo vệ đều tăng nhanh chóng (trung bình từ 15 - 20%/năm); cả nước hiện có 22 cảng hàng không nội địa và quốc tế được trang bị hệ thống thiết bị hạ cánh chính xác, với gần 200 đài vô tuyến dẫn đường hàng không; có 1.880 đài tàu biển đã được trang bị các thiết bị thông tin liên lạc bảo đảm an toàn hàng hải toàn cầu; 10.873 tàu cá xa bờ đã sử dụng các thiết bị thông tin liên lạc tầm xa HF để liên lạc và nhận thông tin từ bờ. Hiện vệ tinh VINASAT-1 và VINASAT-2 đã sử dụng lần lượt 95% và khoảng 60% băng tần; số hoá truyền hình mặt đất đạt được thành công bước đầu với việc ngừng phát sóng hoàn toàn truyền hình tương tự mặt đất tại Đà Nẵng chuyển sang phát sóng số, tạo tiền đề thuận lợi và nhiều bài học kinh nghiệm quý để thực hiện thành công Đề án số hóa truyền hình mặt đất tại Việt Nam (đến năm 2020, Việt Nam sẽ có thêm 100 MHz cho thông tin di động ở băng tần 700 MHz sau khi hoàn thành Đề án này).
Cục Tần số đã cải cách mạnh mẽ thủ tục hành chính. Các mẫu bản khai, thủ tục cấp phép liên tục được cải tiến theo hướng dễ sử dụng, đáp ứng yêu cầu cải cách thủ tục hành chính.
Cục Tần số cũng chú trọng bảo đảm an toàn bức xạ vô tuyến điện. Bộ TT&TT đã ban hành các quy chuẩn kỹ thuật về an toàn bức xạ vô tuyến điện và Danh mục thiết bị viễn thông và đài vô tuyến điện bắt buộc phải thực hiện kiểm định, nhằm bảo đảm độ an toàn về bức xạ điện từ. Theo đó, trạm phát sóng di động (BTS) và đài phát thanh, truyền hình bắt buộc phải thực hiện kiểm định. Bộ TT&TT đã thực hiện kiểm định hàng chục ngàn trạm BTS và theo kế hoạch năm 2016 sẽ bắt đầu kiểm định các trạm phát thanh truyền hình công suất lớn. Chủ động bảo vệ quyền lợi, chủ quyền quốc gia về tần số vô tuyến điện và quỹ đạo vệ tinh. Trong 5 năm qua, Bộ TT&TT và các doanh nghiệp viễn thông, đài truyền hình thực hiện nhiều cuộc phối hợp tần số với các nước có chung đường biên giới như Lào, Campuchia, Trung Quốc về tần số thông tin di động và phát thanh truyền hình... góp phần đảm bảo sự thông suốt thông tin cho khu vực biên giới.
Sau khi phóng thành công vệ tinh VINASAT-1, Việt Nam đã tiếp tục kiên trì, sáng tạo thực hiện các thủ tục phối hợp tần số quỹ đạo vệ tinh với trên 30 quốc gia và vùng lãnh thổ để có được các vị trí quỹ đạo cho vệ tinh VINASAT-2 và vệ tinh VNRedsat-1.
Để phát huy sức mạnh quản lý nhà nước tại địa phương, Cục Tần số đã phối hợp chặt chẽ với các Sở TT&TT trong công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về tần số vô tuyến điện; tham mưu cho UBND các tỉnh, thành phố ban hành các văn bản, chỉ thị đẩy mạnh công tác quản lý tần số ở địa phương; tập huấn, trao đổi nghiệp vụ quản lý tần số. Bên cạnh đó còn tiến hành thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm, giải quyết can nhiễu và cấp phép tần số, góp phần quan trọng nâng cao hiệu quả, hiệu lực quản lý nhà nước về tần số vô tuyến điện tại địa phương.
Cục Tần số cho biết, Luật Tần số vô tuyến điện, Luật Thanh tra, Luật Xử lý vi phạm hành chính và các văn bản pháp quy liên quan khác đã tạo khung pháp lý quan trọng để nâng cao hiệu quả công tác thanh tra chuyên ngành về tần số vô tuyến điện. Qua công tác thanh tra, kiểm tra đã phát hiện, ngăn chặn và xử lý kịp thời các vi phạm pháp luật về tần số vô tuyến điện. Trong 5 năm vừa qua đã thực hiện thanh tra, kiểm tra đối với gần 1.400 tổ chức, cá nhân; ban hành 685 quyết định xử phạt vi phạm hành chính.
Theo ông Đoàn Quang Hoan, bên cạnh những kết quả đạt được, thực tế cho thấy vẫn còn một số bất cập cần khắc phục đó là còn thiếu quy định về cấp phép thiết lập mạng đối với các mạng dùng riêng; một số thiết bị vô tuyến điện phục vụ mục đích quốc phòng hoạt động trong các băng tần không phù hợp với quy định của Liên minh Viễn thông Quốc tế và của Việt Nam. Vì vậy, cần rà soát và có kế hoạch chuyển đổi cho phù hợp; còn nhiều đài PTTH, truyền thanh không dây, thiết bị nhận dạng vô tuyến... có phát xạ không phù hợp với quy chuẩn về phổ tần và tương thích điện từ trường, gây can nhiễu cho các mạng thông tin di động hoặc tiềm ẩn nguy cơ gây nhiễu có hại.