Bên cạnh việc khai thác, nhiều dự án lớn khâu sau của ngành dầu khí Việt Nam đã được triển khai nhằm chế biến nguồn tài nguyên dầu khí tạo ra nhiều sản phẩm đa dạng, có giá trị cao, đáp ứng các nhu cầu của nền kinh tế, nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn tài nguyên.



Phát triển công nghiệp chế biến dầu khí, trong đó có lĩnh vực sản xuất phân bón, phục vụ nông nghiệp, đảm bảo an ninh lương thực là một phần quan trọng trong chiến lược phát triển toàn ngành dầu khí Việt Nam đến năm 2025 đã được Chính phủ phê duyệt. Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam là chủ đầu tư các công trình dầu khí trọng điểm trên toàn lãnh thổ Việt Nam, trong đó có dự án Nhà máy đạm Phú Mỹ, hiện nay thuộc Tổng công ty Phân bón và Hoá chất Dầu khí. Đạm Phú Mỹ là một khâu quan trọng trong chương trình Khí - Điện - Đạm và là một chủ trương lớn nhằm nâng cao giá trị sử dụng nguồn khí từ mỏ Bạch Hổ, trũng Cửu Long và Nam Côn Sơn.


Nhà máy đạm Phú Mỹ được xây dựng trong khu công nghiệp Phú Mỹ 1, huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu trên diện tích 63 ha với tổng vốn xây dựng dự toán là 445 triệu USD. Nhà máy được thiết kế với công suất 2.200 tấn urê/ngày ( tương đương khoảng 741.400 tấn/năm), 1350 tấn amôniắc/ngày (tương đương khoảng 422.598 tấn/năm), có khả năng cung cấp 40% nhu cầu sử dụng phân đạm trong nước.

Nhà máy áp dụng công nghệ tiên tiến đang được sử dụng dẫn đầu trên thế giới, được cung cấp bởi các hãng có tên tuổi từ các nước G7 và châu Âu với các phân xưởng công nghệ chính như: phân xưởng sản xuất amôniắc, phân xưởng sản xuất urê, hệ thống máy phát điện, lò hơi, sản suất khí nitơ, xử lý các nguồn nước cấp và thải…Nhà máy được thiết kế đạt các tiêu chuẩn môi trường quốc tế và Việt Nam.

Khi tiến hành kêu gọi đầu tư, Dự án nhà máy đạm Phú Mỹ cũng gặp phải không ít khó khăn. Chi phí đầu tư lớn, thế giới và khu vực vừa trải qua cuộc khủng hoảng tài chính (1997-1998), thời điểm đó giá phân bón thế giới xuống thấp...là những yếu tố không tạo ra sự hấp dẫn với các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Dự án nếu xem xét đơn thuần về tài chính thì có độ rủi ro cao, hiệu quả kinh tế không hấp dẫn; các nhà đầu tư nước ngoài quan tâm đến dự án thì đặt ra nhiều điều kiện ưu đãi mà Chính phủ khó chấp nhận.

Lĩnh vực sản xuất phân bón là bộ phận của ngành hóa chất và thời điểm đó các dự án, nhà máy phân bón lớn của nước ta phần lớn là thuộc các đơn vị của Tổng công ty Hóa chất Việt Nam, đơn vị có bề dày kinh nghiệm trong sản xuất và kinh doanh phân bón. Tuy nhiên nguồn vốn có hạn nên cũng khó khăn trong việc triển khai một dự án quy mô lớn như nhà máy phân đạm.

 Ngành dầu khí với sự tự tin về nguồn tài chính, năng lực quản lý dự án đầu tư và kế thừa kinh nghiệm đầu tư, quản lý các dự án khai thác dầu khí đã kiến nghị với Chính phủ về phương án tự đầu tư và Chính phủ đã phê duyệt dự án và giao cho Tổng công ty Dầu khí Việt Nam ( nay là Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam) làm chủ đầu tư. Quyết sách này đã thể hiện tầm nhìn vì lợi ích tổng thể của đất nước và cũng thể hiện khát vọng xây dựng ngành công nghiệp dầu khí lớn mạnh, tạo cơ sở vật chất kỹ thuật cho đất nước, đồng thời phục vụ việc phát triển nộng nghiệp, tạo mối liên minh công nông bền vững.

Chính phủ đã tạo rất nhiều điều kiện hỗ trợ để ngành dầu khí hoàn thành dự án, như các chính sách bảo đảm nguồn khí đầu vào với giá phù hợp, chính sách miễn giảm thuế nhập khẩu thiết bị, ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp, hỗ trợ trong giải phóng mặt bằng và thuê đất dài hạn…

Chỉ sau 3 năm xây dựng, tháng 9/2004 một nhà máy phân đạm với công nghệ hiện đại, quy mô lớn đã được hoàn thành và vận hành an toàn, ổn định, cho ra đời sản phẩm với chất lượng cao. Trong lịch sử xây dựng công trình của Việt Nam nói chung và của ngành dầu khí nói riêng, nhà máy đạm Phú Mỹ là một trong số rất ít công trình lớn được triển khai hoàn thành đúng tiến độ, đảm bảo yêu cầu chất lượng, chi phí đầu tư thấp hơn dự toán (Chi phí đầu tư cho toàn dự án khi quyết toán công trình là 380 triệu USD, tiết kiệm đáng kể so với tổng dự toán ban đầu 445 triệu USD).

Đến nay, sau hơn 6 năm hoạt động, nhà máy đạm Phú Mỹ đã được khai thác, vận hành có hiệu quả, thu hồi vốn nhanh (sau 4 năm hoạt động, đến cuối năm 2008, vốn vay cho dự án nhà máy đạm Phú Mỹ đã được hoàn trả xong), thanh toán nợ nhanh, doanh thu, lợi nhuận hàng năm đều cao. Đến hết năm 2010 Nhà máy đã sản xuất được gần 4,5 triệu tấn đạm cung cấp cho nền nông nghiệp nước nhà, làm lợi cho Nhà nước hàng tỷ USD do không phải nhập khẩu.
Quá trình vận hành nhà máy có quy mô rộng lớn, điều kiện nhiệt độ áp suấp cao, nhiều nguồn chất nguy hiểm và độc hại, nhưng tới nay các thông số về kỹ thuật môi trường vẫn được đảm bảo. Cán bộ kỹ thuật Việt Nam  trong một thời gian ngắn đã làm chủ công nghệ, sau 1 năm đã thay thế được các chuyên gia nước ngoài.
 
Chính sự hoàn hảo trong vấn đề lựa chọn công nghệ và thiết bị giúp cho nhà máy ngay sau khi đi vào hoạt động đã cho ra sản phẩm với chất lượng đạt tiêu chuẩn quốc tế, sản lượng ổn định và tăng dần, đạt công suất thiết kế trong thời gian ngắn. Sản phẩm phân đạm  của nhà máy phần lớn đạt chất lượng loại 1, sản phẩm loại 2, loại 3 rất ít.

Trong hơn 6 năm vận hành, nhà máy đã có 3 năm liền vượt sản lượng thiết kế 740 ngàn tấn. Năm 2010, đến ngày 30/11 nhà máy đã đạt sản lượng 740 ngàn tấn và cả năm  đạt 800 ngàn tấn. Điều này có ý nghĩa rất lớn, bởi sản lượng sản xuất của nhà máy hiện nay chưa đáp ứng đủ nhu cầu của thị trường. Sản phẩm đã nhanh chóng chiếm được lòng tin của khách hàng, vốn trước đây quen sử dụng sản phẩm phân đạm nhập khẩu từ nước ngoài.

  • Trần Thuỷ