Nước là nhân tố có thể thúc đẩy phát triển nhưng cũng có thể đe dọa hòa bình, an ninh
Cuối tháng 3 vừa qua, Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Hồng Hà dẫn đầu đoàn Việt Nam tham dự Hội nghị LHQ rà soát toàn diện giữa kỳ việc thực hiện các mục tiêu của Thập kỷ hành động “Nước vì sự phát triển bền vững” giai đoạn 2018-2022 tại New York (Mỹ).
Nước là tài nguyên đặc biệt quan trọng cho phát triển bền vững, phát triển kinh tế xã hội và liên kết chặt chẽ với nhiều vấn đề khác như biến đổi khí hậu, môi trường, y tế, lương thực. Nước cũng là nhân tố có thể thúc đẩy phát triển nhưng cũng có thể đe dọa hòa bình, an ninh, nhất là khi xảy ra bất đồng giữa các nước sử dụng chung nguồn nước xuyên biên giới.
Hội nghị nước 2023 là Hội nghị cấp cao đầu tiên sau gần 50 năm của LHQ về vấn đề này, thu hút sự tham dự của 15 nguyên thủ, lãnh đạo Chính phủ, gần 80 Bộ trưởng các nước và nhiều lãnh đạo các cơ quan LHQ, các tổ chức quốc tế.
Hội nghị được tổ chức nhằm mục tiêu rà soát tiến độ của cộng đồng quốc tế thực hiện Thập kỷ hành động của LHQ “Nước vì phát triển bền vững” giai đoạn 2018-2028. Hội nghị sẽ thảo luận về tầm quan trọng của nước gắn với việc đảm bảo sức khỏe, thúc đẩy phát triển bền vững, ứng phó với biến đổi khí hậu cũng như tăng cường hợp tác quốc tế, nhất là hợp tác xuyên biên giới. Đây cũng là dịp để cộng đồng quốc tế đưa ra các cam kết hành động mạnh mẽ để giải quyết các vấn đề liên quan đến quản lý, sử dụng bền vững tài nguyên nước và tăng cường hợp tác trong lĩnh vực này.
Nguồn nước của Việt Nam phụ thuộc nhiều vào lưu vực, các con sông bắt nguồn từ nước ngoài
Việt Nam có 3.450 con sông, suối lớn nhỏ, với chiều dài từ 10km trở lên, tổng lượng nước mặt trung bình hằng năm hiện nay khoảng 830 tỷ mét khối, nhưng 63% nguồn nước mặt tạo ra bởi các lưu vực sông nằm ngoài lãnh thổ. Trong đó có hai con sông lớn là sông Cửu Long với 90% lưu vực sông nằm ngoài lãnh thổ Việt Nam, sông Hồng với trên 50% lưu vực sông nằm ngoài lãnh thổ Việt Nam. Có thể nói nguồn nước của Việt Nam phụ thuộc nhiều vào lưu vực, các con sông bắt nguồn từ nước ngoài.
Do vậy, chúng ta gặp khó khăn trong việc chủ động quản lý, khai thác nguồn nước như tổng lượng dòng chảy, chế độ dòng chảy, nguồn phù sa, nguồn lợi thủy sản tự nhiên... chưa kể việc ứng xử của một số quốc gia ở thượng nguồn làm ảnh hưởng đến nguồn nước chảy vào Việt Nam. Thực tế tình trạng xâm ngập mặn ở đồng bằng sông Cửu Long có một phần là do nguyên nhân thiếu nước đầu nguồn.
Biến đổi khí hậu với thời tiết cực đoan tạo ra những biến đổi khó lường gây ra tình trạng hạn hán kéo dài ở một số tỉnh, như Ninh Thuận, Bình Thuận; nước biển dâng, thiếu nước đầu nguồn làm gia tăng tình trạng xâm ngập mặn ở nhiều tỉnh, nhất là Tây Nam Bộ gây thiệt hại lớn đến sản xuất, nhiều vùng nước ngọt sinh hoạt thiếu nghiêm trọng. Nông dân và nhiều doanh nghiệp phải tạm ngừng sản xuất hoặc chỉ sản xuất cầm chừng. Hàng trăm nghìn héc-ta lúa, cây ăn quả bị thiệt hại nặng nề.
Một kịch bản xấu có thể xảy ra là đến năm 2050 nước biển dâng cho toàn dải ven biển Việt Nam từ 21cm đến 25cm và đến năm 2100 từ 44cm đến 73cm(1). Đó là chưa kể nước dâng do bão, thủy triều ven bờ, do sụt lún đất vì khai thác nước ngầm quá mức, có thể làm cho 10% diện tích đồng bằng sông Hồng, 15% diện tích đồng bằng sông Cửu Long, 14% diện tích Thành phố Hồ Chí Minh, 20% đến 30% diện tích các tỉnh Thái Bình, Nam Định, Hậu Giang, Cà Mau cuối thế kỷ này bị ngập nước, ảnh hưởng đến khoảng 20 triệu người dân và hàng trăm nghìn doanh nghiệp. Vấn đề kiểm soát mặn, giữ ngọt, ngăn nước biển dâng làm sạt lở bờ biển của suốt dải đất từ Tiền Giang đến Cà Mau, Kiên Giang đang trở nên cấp bách hơn bao giờ hết.
Kế hoạch hành động
Trên tinh thần đó, triển khai thực hiện Kết luận số 36-KL/TW ngày 23/6/2022 của Bộ Chính trị về bảo đảm an ninh nguồn nước và an toàn đập, hồ chứa nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; và thực hiện Quyết định số 1595/QĐ-TTg ngày 23/12/2022 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Kế hoạch hành động thực hiện Kết luận số 36-KL/TW ngày 23/6/2022 của Bộ Chính trị về bảo đảm an ninh nguồn nước và an toàn đập, hồ chứa nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, trong thời gian qua, Cục Thủy lợi để xây dựng dự thảo Đề án Bảo đảm an ninh nguồn nước và an toàn đập, hồ chứa nước thời kỳ đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
Theo đó, mục tiêu chung của Đề án là bảo đảm số lượng, chất lượng nước cấp cho sinh hoạt trong mọi tình huống, đáp ứng nhu cầu nước cho sản xuất, kinh doanh của các ngành, lĩnh vực, đặc biệt là các ngành kinh tế quan trọng, thiết yếu; bảo đảm mọi người dân, mọi đối tượng được tiếp cận sử dụng nước, công bằng, hợp lý.
Chủ động tích trữ, điều hòa nguồn nước; ứng phó hiệu quả, giảm thiểu rủi ro thiệt hại từ các thảm họa, thiên tai liên quan đến nước, thích ứng với biến đổi khí hậu, bảo đảm sức khoẻ, đời sống, sản xuất của người dân; bảo vệ môi trường, khắc phục tình trạng suy thoái, cạn kiệt nguồn nước. Bảo đảm an toàn đập, hồ chứa nước, trong đó các đập, hồ chứa nước quan trọng phải đảm bảo an toàn tuyệt đối trong mọi tình huống; chủ động ứng phó khi có sự cố, bảo vệ tính mạng tài sản của nhân dân.
Mục tiêu cụ thể đến năm 2025 là hoàn thành việc lập quy hoạch ngành quốc gia; tập trung lập các quy hoạch có tính chất kỹ thuật, chuyên ngành liên quan đến nước; thực hiện công tác điều tra nguồn nước, năng lực kết cấu hạ tầng ngành nước quốc gia;
Phấn đấu 95% hộ gia đình ở thành thị và 60% hộ gia đình ở nông thôn được sử dụng nước sạch theo quy chuẩn; ưu tiến bố trí và lồng ghép các nguồn lực để từng bước giải quyết tình trạng thiếu nước sinh hoạt cho người dân nông thôn tại một số vùng đặc biệt khó khăn về nước, khu vực thường xuyên bị ảnh hưởng của thiên tai, hạn hán, thiếu nước, xâm nhập mặn, ô nhiễm nguồn nước, vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng bãi ngang, ven biển, hải đảo;
Nghiên cứu, đầu tư xây dựng công trình điều tiết mặn, ngọt, dâng nước, trữ nước; Nghiên cứu, đầu tư xây dựng các công trình điều tiết mặn, ngọt, dâng nước, trữ nước; xây dựng công trình kết nối, liên kết nguồn nước; cơ bản sửa chữa, nâng cấp bảo đảm an toàn đập, hồ chứa nước bị hư hỏng, xuống cấp nghiêm trọng;
20-40% tổng lượng nước thải tại các đô thị loại II trở lên và 10-15% đối với các đô thị từ loại V trở lên được thu gom và xử lý đạt tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật trước khi xả ra môi trường; Giữ tỷ lệ che phủ rừng toàn quốc ở mức 42%; duy trì diện tích rừng tự nhiên hiện có; bảo tồn và phát triển bền vững các hệ sinh thái ngập nước quan trọng, duy trì hệ sinh thái rừng và các nguồn sinh thuỷ;…
Đến năm 2030, cân đối đủ nước phục vụ cho sinh hoạt, công nghiệp, dịch vụ và các ngành kinh tế quan trọng; đáp ứng đủ nhu cầu nước cho sản xuất nông nghiệp theo mức bảo đảm tại các vùng kinh tế. Duy trì 100% hộ gia đình ở thành thị được sử dụng nước sạch; trên 95% dân số nông thôn sử dụng nước sạch, hợp vệ sinh, trong đó 80% hộ gia đình ở nông thôn được sử dụng nước sạch. Giải quyết căn bản cấp nước sinh hoạt cho người dân tại các vùng khó khăn, khan hiếm về nguồn nước, khu vực thường xuyên bị ảnh hưởng của hạn hán, thiếu nước, xâm nhập mặn, ô nhiễm nguồn nước, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi, vùng sâu, vùng xa, bãi ngang, ven biển, hải đảo; Kiểm soát cơ bản 90% các hoạt động khai thác, sử dụng nước, nâng cao năng lực khai thác của các công trình thủy lợi; 100% các sông liên tỉnh được công bố dòng chảy tối thiểu; 100% các đoạn sông liên tỉnh chảy qua khu dân cư tập trung, khu công nghiệp được công bố khả năng tiếp nhận nước thải, sức chịu tải; 80% lưu vực sông lớn, quan trọng có hệ thống quan trắc, giám sát tự động, trực tuyến;…
Đến năm 2045, hoàn thiện chính sách pháp luật về nước đồng bộ, thống nhất trong thực hiện, thúc đẩy bảo đảm an ninh nguồn nước quốc gia; quản trị ngành nước trên nền tảng công nghệ số; Hoàn thành xây dựng các công trình điều tiết mặn, ngọt, dâng nước, trữ nước trên các hệ thống sông, các hồ chứa nước phục vụ đa mục tiêu. Hình thành mạng lưới liên kết, chuyển nước vùng, quốc gia;
Nhằm đạt được các mục tiêu đề ra, Đề án cũng nêu ra 12 nhóm nhiệm vụ, giải pháp chính, bao gồm: Tăng cường tuyên truyền, truyền thông nâng cao nhận thức về bảo đảm an ninh nguồn nước và an toàn đập, hồ chứa nước; Hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về bảo đảm an ninh nguồn nước và an toàn đập, hồ chứa nước; Đổi mới cơ chế tài chính và huy động nguồn lực; Nâng cao chất lượng công tác quy hoạch, điều tra cơ bản; Chủ động phát triển, tích trữ, điều hòa, phân phối nguồn nước, cấp, tiêu, thoát nước phục vụ dân sinh và phát triển kinh tế - xã hội, sử dụng nước hiệu quả, tiết kiệm; Nâng cao chất lượng, hiệu quả quản lý, vận hành, bảo đảm an toàn đập, hồ chứa nước; Phòng, chống, giảm thiểu tác động bất lợi do thiên tai liên quan đến nước, biến đổi khí hậu và mất an ninh nguồn nước; Tăng cường bảo vệ và phát triển rừng, bảo vệ nguồn sinh thủy; …
Trong đó, giai đoạn 2023 – 2025, sẽ triển khai rà soát, điểu chỉnh, bổ sung thể chế, chính sách pháp luật liên quan đến an ninh nguồn nước theo hướng quản lý tổng hợp, kinh tế hóa ngành nước, khắc phục chồng chéo, làm rõ trách nhiệm quản lý, nâng cao hiệu quả sử dụng nước; nghiên cứu xây dựng hệ thống chỉ tiêu đánh giá ANNN quốc gia; Triển khai nghiên cứu các công trình kết nối, điều hòa, chuyển nước lưu vực; kiểm soát mặn, chuyển nước vùng ĐBSCL; Thực hiện lộ trình giá sản phẩm, dịch vụ thủy lợi, chi trả dịch vụ môi trường rừng; chuyển đổi cơ cấu sản xuất bền vững tại các vùng thường xuyên chịu ảnh hưởng của hạn hán, thiếu nước, xâm nhập mặn;…
Giai đoạn 2026-2030, sẽ hoàn thiện thể chế, chính sách pháp luật về an ninh nguồn nước, thúc đẩy bảo đảm ANNN đối với từng ngành, lĩnh vực; Triển khai đầu tư các công trình lớn điều tiết mặn, ngọt, dâng nước, trữ nước trên hệ thống sông lớn, bổ sung nước ngọt cho vùng ven biển phục vụ dân sinh, nuôi trồng thủy sản, sản xuất nông nghiệp, kinh tế biển khu vực ven biển Bắc Bộ, duyên hải Miền Trung, ĐBSCL; Nâng cấp, hiện đại hóa, tự động hóa công tác quản lý, khai thác công trình hạ tầng ngành nước, hệ thống giám sát, cảnh báo, dự báo nguồn nước, thiên tai; khôi phục và phát huy hiệu quả phục vụ của công trình hiện có;…
Giai đoạn 2031-2045, hoàn thành các công trình kết nối, liên kết nguồn nước vùng, quốc gia đảm bảo hình thành được mạng lưới kết nối nguồn nước quốc gia vào năm 2045. Hoàn thành các công trình lớn điều tiết mặn, ngọt, dâng nước, trữ nước trên hệ thống sông, các hồ chứa lớn, công trình chống ngập, xử lý và tiêu thoát nước thải đô thị;…