Đáp ứng nhu cầu thông tin liên lạc thời mở
Tiến sĩ Mai Liêm Trực – Nguyên Thứ trưởng Bộ Bưu chính - Viễn thông, Nguyên Tổng cục trưởng Tổng cục Bưu điện kể, cách nay hơn 20 năm, muốn đưa Internet vào Việt Nam phải có 3 điều kiện.
Thứ nhất, mạng viễn thông Việt Nam phải tự động hoá trong nước và quốc tế vì Internet lúc đó chủ yếu qua đường dây điện thoại (dial up). Điều này như đã nói ở trên, đến năm 1995, Việt Nam đã số hoá và tự động hoá hoàn toàn đến các tỉnh và thành phố trong cả nước và kết nối thuận lợi với quốc tế.
Thứ hai, phải có các doanh nghiệp nắm vững Internet và đầu tư trang thiết bị để cung cấp dịch vụ cho xã hội. Ở đây phải nói đến vai trò tiên phong của một số đơn vị và cán bộ khoa học kĩ thuật đã tìm cách ứng dụng giao thức TCP/IP để làm Internet như Viện Công nghệ thông tin của Viện khoa học công nghệ VN (sau này hình thành mạng Netnam), mạng Vietnet của Bưu điện Khánh Hoà (sau này gộp với VDC của VNPT để làm mạng VNN) và mạng Trí tuệ Việt Nam của FPT (sau này là FPT Internet).
Một góc thành phố Hồ Chí Minh hôm nay |
Tôi cũng được tiếp cận sớm với Internet trong chuyến công tác tại Mỹ đầu năm 1991, khi dự Hội nghị quốc tế về thông tin vệ tinh. Ngoài việc kí kết với các nước về mở kênh liên lạc vệ tinh (trừ Mỹ vì còn cấm vận liên lạc viễn thông với VN) tôi còn làm việc với các doanh nghiệp viễn thông lớn của Mỹ (đặc biệt là AT&T) để vận động bỏ cấm vận liên lạc viễn thông với VN và được các bạn Mỹ giới thiệu về Internet nhưng lúc đó chưa có Word Wide Web mà chỉ làm email và truyền tệp FTP.
Về nước tôi quyết tâm cùng lãnh đạo Tổng cục bưu điện tăng tốc phát triển mạng viễn thông để đáp ứng nhu cầu thông tin liên lạc của đất nước thời mở cửa đồng thời cũng làm tiền để để đưa Internet vào Việt Nam.
Năm 1994, bức thư điện tử đầu tiên của Việt Nam do Thủ tướng Võ Văn Kiệt gởi Thủ tướng Thuỵ Điển qua mạng Varenet của Viện CNTT kết nối qua đường điện thoại với Austrailia. Đến năm 1996, các doanh nghiệp như VDC, FPT, Netnam đã sẵn sàng kết nối với mạng Internet toàn cầu.
Thứ ba, quan trọng nhất là phải có sự đồng ý của lãnh đạo Đảng và Chính phủ mà trực tiếp là thường trực Bộ Chính Trị và Thủ tướng chính phủ cho phép Việt Nam kết nối với mạng Internet toàn cầu.
Để tăng sức thuyết phục cho lãnh đạo cấp cao về lợi ích của Internet, Tổng cục Bưu điện đã phối hợp với Uỷ ban về người Việt Nam ở nước ngoài thí điểm đưa báo Quê hương lên Internet vào tháng 2/1996 và dịp tết Nguyên đán để thông tin về đất nước ra với thế giới và đồng bào Việt Nam ở nước ngoài.
Tháng 3/1997, Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã kí nghị định 21/CP ban hành quy chế tạm thời về việc sử dụng Internet tại Việt Nam đồng thời thành lập Ban điều phối quốc gia về Internet do Bộ trưởng Bộ KHCN làm trưởng ban- ông Phạm Gia Khiêm và Tổng cục trưởng Tổng cục Bưu điện – ông Mai Liêm Trực làm phó ban cùng các thành viên gồm lãnh đạo Bộ Nội vụ nay là Bộ Công an: ông Nguyễn Khánh Toàn, Bộ Văn hóa Thông tin -ông Phạm Khắc Liên, Viện KHCNVN- ông Đặng Vũ Minh, ban chỉ đạo quốc gia CNTT- GS Chu Hảo dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Phó Thủ tướng Nguyễn Khánh.
Sau vài tháng chuẩn bị, chúng tôi lên báo cáo thường trực Bộ chính trị.
Ngày 19/11/1997, thay mặt ban điều phối quốc gia về Internet Việt Nam, chúng tôi họp báo công bố Việt Nam chính thức kết nối với mạng Inetrnet toàn cầu.
Khi cho mở Internet, thường vụ Bộ Chính trị và Chính phủ yêu cầu “quản lý đến đâu mở đến đó”. Chúng tôi chia sẻ với lo lắng này vì lúc đó Internet rất mới ở Việt Nam, mà đất nước ta trải qua quá nhiều tổn thất của chiến tranh kéo dài nên rất lo ngại về an ninh quốc gia.
Vài năm đầu, Internet Việt Nam phát triển rất chậm một phần vì qua dial up, nhưng chủ yếu do các cơ quan chức năng lúc đó như Bộ Công an nói chưa quản lý được, Bộ Văn hoá thông tin lo ngại văn hoá đồi truỵ vì vậy chưa cho mở cà phê Internet. Có lần một cơ sở ở Phú Yên làm cà phê Internet bị công an bắt và tịch thu máy tính. Bưu điện Phú Yên điện ra cho tôi nhưng tôi cũng bất lực vì chưa được phép.
Thậm chí trong một cuộc họp tại Ban điều phối quốc gia Internet, cơ quan chức năng đã copy nhiều tài liệu nói xấu lãnh đạo Việt Nam trên mạng. Mặc dù vậy, chúng tôi thuyết phục và được các anh trong ban điều phối ủng hộ cho tư duy quản lý mới là “quản lý phải theo kịp yêu cầu phát triển” có nghĩa là “phát triển đến đâu quản lý đến đó”. Đó là các anh Nguyễn Khánh Toàn (Bộ Công an), Phạm Khắc Liên (Bộ Văn hóa Thông tin), Chu Hảo (Bộ KHCN).
Từ đó, chúng tôi báo cáo lên trên tư duy quản lý đó nhưng vẫn chưa được chấp nhận cho mở càphê internet. May mắn là lúc đó GS Đặng Hữu đang chủ trì xây dựng Dự thảo chỉ thị 58 của Bộ chính trị về phát triển và ứng dụng CNTT.
Tôi có làm văn bản cho GS Đặng Hữu đưa vào chỉ thị 58 phần viễn thông và Internet với hai nội dung là: quản lý Internet theo phương châm “quản lý Internet phải theo kịp yêu cầu phát triển”, nội dung thứ hai là mở cửa thị trường viễn thông cạnh tranh cho tất cả các thành phần kinh tế. May mắn là cả hai nội dung này đều được bộ chính trị chấp nhận trong chỉ thị 58 vào cuối năm 2000.
Trên cơ sở đó, Tổng cục Bưu điện xây dựng và trình chính phủ ban hành Nghị định 61/CP năm 2001 về quản lý và sử dụng Internet tại Việt Nam thay thế Nghị định 21/CP năm 1997. Từ đó bùng nổ phát triển càphê Internet, sau này có công nghệ ADSL và Smart phone, gia tăng nhanh chóng số lượng người sử dụng Internet ở Việt Nam.
Thế mới thấy, cuộc sống bao giờ cũng đi nhanh hơn tư duy quản lý, vì vậy nói chung là cứ để phát triển và sau đó ta mới xem xét điểm hay, điểm dở. Quản lý là quản lý các mặt tiêu cực để tránh thiệt hại chứ không phải quản lý để ngăn cản sự phát triển. Tư duy này đúng trong mọi lĩnh vực của cuộc sống. Tổng kết 10 năm thực hiện chỉ thị 58 của Bộ chính trị chúng tôi thậm chí đề xuất phương châm quản lý 3.0 là “Quản lý phải thúc đẩy phát triển”.
Tôi nghĩ những năm qua theo phương châm đó thì Việt Nam đã phát triển mạnh mẽ Internet, tận dụng những thế mạnh tuyệt vời của Internet để thay đổi cách thức quản lý nhà nước (chính quyền điện tử) cũng như toàn bộ các hoạt động sản xuất kinh doanh, về giao tiếp qua mạng, nghiên cứu và học tập, vui chơi giải trí qua internet, và cả báo chí điện tử cũng phát triển rất mạnh.
Mạng xã hội hơn 10 năm qua cũng phát triển nhanh, nhiều lợi ích nhưng cũng có nhiều mặt tiêu cực như thông tin thiếu trung thực, tội phạm trên không gian mạng. Đó là những thách thức mới nhưng không vi thế mà cám đoán mạng xã hội. Các cơ quan chính phủ và báo chí truyền hình chính thống đều tận dụng facebook rất hiệu quả cho công việc.
Khi có những thông tin xuyên tạc và bịa đặt trên mạng xã hội thì ta dùng thông tin trung thực và kịp thời để giải toả thông tin sai lệch và tăng cường sự công khai minh bạch đối thoại, để ngăn chặn những thông tin độc hại làm ảnh hưởng đến sự phát triển của đất nước.
Lê Thúy
Ảnh: Thu Hà