Câu nói đó đã trở thành một trong những quan điểm chỉ đạo xuyên suốt của cách mạng Việt Nam được Đảng ta vận dụng linh hoạt, sáng tạo trong phương pháp cách mạng ở từng giai đoạn lịch sử cụ thể, đưa cách mạng Việt Nam vượt qua khó khăn, thử thách, đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Quan điểm của Người đã được thể hiện rõ nét trong các văn kiện trình Đại hội VIII của Đảng. Nhân chuẩn bị Đại hội lần thứ XIII của Đảng, Tạp chí Quốc phòng toàn dân trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc chùm bài viết quan trọng này của Thượng tướng NGUYỄN TRỌNG NGHĨA, Ủy viên Trung ương Đảng, Ủy viên Quân ủy Trung ương, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam.
Phần I - Tính “bất biến” trong văn kiện trình Đại hội XIII của Đảng
Ngay từ khi thành lập Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thông qua hàng loạt đối sách, cùng một lúc xử lý hiệu quả cả giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm. Đặc biệt, đối với giặc ngoại xâm, bằng các sách lược linh hoạt, mềm dẻo, Đảng ta đã từng bước phân hóa, gạt bỏ từng kẻ thù, đưa đất nước vượt qua giai đoạn đầy khó khăn, thách thức, giữ vững thành quả Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Trong đó, Hiệp định Sơ bộ ngày 06/3/1946 và Tạm ước ngày 14/9/1946 được xem là sự sáng tạo, mẫu mực về sách lược “ứng vạn biến” trên nguyên tắc thực hiện mục tiêu “bất biến” là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, với mục tiêu “thà hy sinh tất cả, nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”, “nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một” là cơ sở cho Đảng hoạch định đường lối vừa kháng chiến, vừa kiến quốc; kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ, dựa vào sức mình là chính,... lãnh đạo cả nước hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước và đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Bước vào thời kỳ hòa bình, bằng tư duy khoa học, Đảng ta đã vận dụng sáng tạo phương châm “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” vào thực tiễn công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đã đem lại nhiều thành tựu to lớn. Nhất là, tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (năm 1986) đã hoạch định đường lối đổi mới toàn diện đất nước, tạo bước ngoặt mang tính lịch sử trọng đại, đưa đất nước vượt qua tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng, đặt nền tảng cho việc tìm ra con đường phù hợp đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, tiếp tục được các kỳ Đại hội Đảng sau đó bổ sung, phát triển theo tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Mục đích bất di, bất dịch của ta vẫn là hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ. Nguyên tắc của ta thì phải vững chắc, nhưng sách lược của ta thì linh hoạt”1.
Đường lối của cách mạng Việt Nam theo phương châm ‘Dĩ bất biến, ứng vạn biến” theo tư tương Hồ Chí Minh không chỉ “đúng” mà còn phải “khéo’’; không chỉ là lập trường, quan điểm mà còn là nghệ thuật, mưu lược; sự kết hợp hài hòa giữa giữ vững nguyên tắc chiến lược với linh hoạt về sách lược, giữa phát huy truyền thống yêu nước của dân tộc với vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn, tạo nên tính độc đáo của Cách mạng Việt Nam. Điều đó tiếp tục được các văn kiện trình Đại hội XIII của Đảng kế thừa, phát triển sáng tạo trong thời kỳ toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng hiện nay.
Tính Bất biến trong các văn kiện trình Đại hội XIII của Đảng được thể hiện trong các vấn đề sau:
Một là, tiếp tục khẳng định mục đích, lý tưởng của cách mạng Việt Nam độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, con đường tất yếu của cách mạng Việt Nam trong thời kỳ mới
Đây là sự lựa chọn duy nhất đúng, phù hợp với đòi hỏi và nguyện vọng của dân tộc, nhân dân Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại mới, mở ra từ Cách mạng Tháng mười Nga năm 1917, là nội dung cốt lõi xuyên suốt toàn bộ tư tưởng Hồ Chí Minh. Bằng sự kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa Mác - Lênin với chủ nghĩa yêu nước chân chính; giữa con đường giải phóng dân tộc gắn liền với giải phóng giai cấp thông qua cuộc cách mạng vô sản, do chính đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhận rõ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội có quan hệ biện chứng và tác động qua lại lẫn nhau; độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội, còn chủ nghĩa xã hội là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc.
Trong bối cảnh tình hình thế giới và trong nước có cả thuận lợi, thời cơ và khó khăn, thách thức đan xen, đặt ra nhiều vấn đề mới, yêu cầu nặng nề, phức tạp hơn đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bài học phải “kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền chủ nghĩa xã hội” tiếp tục được các văn kiện trình Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu độc lâp dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới của Đảng để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”. Trong đó, Đảng ta xác định, tiếp tục nắm vững và xử lý tốt các quan hệ lớn: Quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa tuân theo các quy luật thị trường và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; giữa Nhà nước, thị trường và xã hội; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường; giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ; giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội.
Trong nhận thức và giải quyết các quan hệ lớn, cần chú trọng hơn đến bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa; xây dựng, hoàn thiện quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp; phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường; bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; giữ vững độc lập, tự chủ và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân. Kiên quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc độc lâp, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Giữ vững an ninh chính trị, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, an ninh kinh tế, an ninh mạng, an ninh con người, xây dựng xã hội trật tự, kỷ cương. Chủ động ngăn ngừa nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa; phát hiện sớm và xử lý kịp thời những nhân tố bất lợi, nhất là những nhân tố có thể gây đột biến; đẩy mạnh đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động chống phá của các thế lực thù địch. Tiếp tục thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, có hiệu quả; bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hoà bình, ổn định, không ngừng nâng cao vị thế, uy tín quốc tế của Việt Nam.
Đó là cái “bất biến”, đòi hỏi chúng ta phải thường xuyên nắm vững, làm cơ sở “gốc” cho những sách lược đối nội, đối ngoại linh hoạt nhằm thực hiện có hiệu quả hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tô quôc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới. Đồng thời, nhân nguồn sức mạnh tinh thần, thống nhất về tư tưởng, ý chí, hành động đấu tranh chống lại các luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, về những thành tựu của công cuộc đổi mới đã và đang trở thành hiện thực sinh động ở Việt Nam.
Hai là, giữ vững sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội
Nhận thức sâu sắc ý nghĩa về vai trò lãnh đạo và sứ mệnh lịch sử của Đảng, các văn kiện trình Đại hội XIII của Đảng tiếp tục khẳng định “Nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Nhà nước và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả; xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ, gắn bó mật thiết với Nhân dân là những nhân tố có ý nghĩa quyết định thành công của sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước, bảo vệ Tổ quốc”. Đồng thời, tiếp tục xây dựng, chỉnh đốn Đảng toàn diện; đổi mới phương thức lãnh đạo, nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng; xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả; xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, nhất là cán bộ cấp chiến lược có đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; làm tốt công tác tư tưởng, lý luận; chú trọng công tác bảo vệ Đảng, bảo vệ chính trị nội bộ; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật và dân vận của Đảng. Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân do Đảng lãnh đạo là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị. Nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước. Xác định rõ hơn vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp trên cơ sở các nguyên tắc pháp quyền, bảo đảm quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ và tăng cường kiểm soát quyền lực nhà nước. Xây dựng hệ thống pháp luật đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, lấy quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân, doanh nghiệp làm trọng tâm thúc đẩy đổi mới sáng tạo, bảo đảm yêu cầu phát triển nhanh, bền vững.
Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng Cương lĩnh, chiến lược, các chủ trương, chính sách lớn; lãnh đạo thể chế hóa các quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng thành chính sách, pháp luật; lãnh đạo xây dựng tổ chức bộ máy, đội ngũ cán bộ, công chức đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; lãnh đạo tổ chức thực hiện có hiệu quả các chủ trương, chính sách, Hiến pháp và pháp luật; lãnh đạo đổi mới, nâng cao chất lượng lập pháp, cải cách hành chính và cải cách tư pháp. Các tổ chức của Đảng và đảng viên, nhất là tổ chức, đảng viên hoạt động trong các cơ quan nhà nước vừa phải gương mẫu tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, vừa phải nắm vững, kiên định và tuân thủ nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, tự phê bình và phê bình, bảo đảm cho Đảng luôn là một khối thống nhất về ý chí và hành động, bản lĩnh, tư duy sáng tạo trong quá trình lãnh đạo cách mạng. Cán bộ, đảng viên nêu cao vai trò tiền phong, gương mẫu trong thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội, bảo đảm sự lãnh đạo tập trung, thống nhất của Đảng, đồng thời tôn trọng nguyên tắc hiệp thương dân chủ trong tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, phát huy mạnh mẽ vai trò, tính tự chủ, năng động, sáng tạo của Mặt trận và các tổ chức chính trị - xã hội. Đổi mới, nâng cao chất lượng, xây dựng, ban hành nghị quyết của Đảng. Chỉ ban hành nghị quyết khi thật sự cần thiết. Nghị quyết phải thiết thực, ngắn gọn, khả thi. Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo kiên quyết, giám sát chặt chẽ việc cụ thể hoá, thể chế hoá, tổ chức thực hiện nghị quyết; coi trọng kiểm tra, giám sát, đôn đốc, sơ kết, tổng kết việc thực hiện nghị quyết, chỉ thị của Đảng, bảo đảm hiệu lực, hiệu quả. Đẩy mạnh cải cách hành chính, ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của Đảng. Tiếp tục tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận về đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng trong điều kiện mới.
Những vấn đề cơ bản trên, không những là yêu cầu để Đảng thực sự là người lãnh đạo cách mạng, mà còn khẳng định vấn đề nguyên tắc, tính bất biến có ý nghĩa quyết định thành công của sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc.
Ba là, tiếp tục khẳng định quan điểm lấy dân làm gốc, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền làm chủ của Nhân dân
Trong bài viết “Chuẩn bị và tiến hành thật tốt Đại hội XIII của Đảng, đưa nước bước vào một giai đoạn phát triển mới”, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đã đúc kết “Trong mọi công việc của Đảng và Nhà nước, luôn luôn xác định “dân làm gốc”,... Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới;...”. Ý kiến chỉ đạo của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước tiếp tục làm sáng tỏ tư tưởng Hồ Chí Minh về lấy dân làm gốc trong tình hình hiện nay. Về nguyên tắc “lấy dân làm gốc” được các văn kiện trình Đại hội XIII của Đảng xác định “Đề cao vai trò chủ thể, vị trí trung tâm của Nhân dân trong chiến lược phát triển đất nước, trong toàn bộ quá trình xây dựng, bảo vệ Tổ quốc. Phát huy tính tích cực chính trị - xã hội, trí tuệ, quyền và trách nhiệm của Nhân dân tham gia xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội, xây dựng đội ngũ đảng viên, cán bộ, công chức”. Thực hiện tốt, có hiệu quả dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện, dân chủ cơ sở theo phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Xử lý kịp thời, nghiêm minh tổ chức, cá nhân vi phạm dân chủ, làm phương hại đến quyền làm chủ của Nhân dân. Đó là sự tiếp tục cụ thể hóa, hoàn thiện thể chế thực hành dân chủ theo tinh thần Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) và Hiến pháp năm 2013, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Thực hiện đúng đắn, hiệu quả dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện, đặc biệt là dân chủ ở cơ sở.
Trong đó, văn kiện của Đảng cũng chỉ rõ việc đề cao vai trò chủ thể, vị trí trung tâm của Nhân dân trong chiến lược phát triển đất nước, trong toàn bộ quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Phát huy tính tích cực chính trị - xã hội, trí tuệ, quyền và trách nhiệm của Nhân dân tham gia xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội, xây dựng đội ngũ đảng viên, cán bộ, công chức; động viên Nhân dân tham gia phát triển kinh tế; quản lý và tự quản xã hội; xây dựng, quản lý, thụ hưởng văn hoá; xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân, ngoại giao nhân dân gắn với thế trận quôc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân, thế trận lòng dân. Xử lý kịp thời, nghiêm minh những tổ chức, cá nhân lợi dụng dân chủ, gây rối nội bộ, làm mất ổn định chính trị - xã hội hoặc vi phạm dân chủ, làm phương hại đến quyền làm chủ của Nhân dân.
Như vậy, nguyên tắc “lấy dân làm gốc” trong các văn kiện trình Đại hội XIII của Đảng một lần nữa khẳng định rõ vị trí, vai trò, sứ mệnh của Nhân dân đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Đồng thời, chỉ rõ trách nhiệm, bổn phận của Đảng và Nhà nước với Nhân dân không chỉ là vấn đề lợi ích, mà sâu xa hơn là tin dân, trọng dân, gần dân, hiểu dân, bàn bạc với dân, học hỏi dân, gương mẫu và tự phê bình trước dân.
Bốn là, kiên định mục tiêu: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”
Mục tiêu tổng quát trong Dự thảo Báo cáo tổng kết thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm (2011-2020), xây dựng Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội năm 2021-2030 trong các văn kiện trình Đại hội XIII của Đảng, xác định: “Xây dựng xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, trật tự, kỷ cương, an toàn, bảo đảm hạnh phúc của người dân”. Có thể khẳng định, đây là một chủ trương chỉ đạo chiến lược vừa thể hiện sự kiên định mục tiêu của cách mạng Việt Nam đã được Đảng ta đưa ra trong các kỳ đại hội trước, vừa có bước phát triển mới được thể hiện trong các văn kiện trình Đại hội XIII của Đảng.
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, tư tưởng chiến lược nhất quán của Đảng là xây dựng một thể chế chính trị - xã hội của dân, do dân và vì dân. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung phát triển 2011), Đảng ta xác định, “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Đó là tư tưởng chỉ đạo chiến lược hợp lòng dân, được toàn dân ủng hộ, đồng lòng và ra sức thực hiện. Để đạt mục tiêu đó, các văn kiện trình Đại hội XIII của Đảng xác định phải luôn quán triệt sâu sắc, thực hiện nghiêm túc quan điểm Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của Nhân dân; lấy hạnh phúc, ấm no của Nhân dân làm mục tiêu phấn đấu, củng cố; tăng cường niềm tin của Nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa. Trong lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành, tổ chức thực hiện phải có quyết tâm chính trị cao, nỗ lực lớn, hành động quyết liệt, năng động, sáng tạo, tích cực, có bước đi phù hợp, phát huy mọi nguồn lực, động lực và tính ưu việt của chế độ xã hội; kịp thời tháo gỡ các điểm nghẽn; đề cao trách nhiệm người đứng đầu gắn liền với phát huy sức mạnh đồng bộ của hệ thống chính trị, giữ vững kỷ cương; coi trọng tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận; thực hiện tốt sự phối, kết hợp trong lãnh đạo, quản lý, điều hành; coi trọng chất lượng và hiệu quả thực tế; tạo đột phá để phát triển.
Tập trung ưu tiên xây dựng đồng bộ thể chế phát triển, bảo đảm hài hoà giữa kế thừa và đổi mới, ổn định và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị, văn hoá, xã hội; giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hoá, con người, giải quyết các vấn đề xã hội, bảo vệ tài nguyên, môi trường; giữa phát triển kinh tế, xã hội với bảo đảm quốc phòng, an ninh; giữa độc lập, tự chủ với tăng cường đối ngoại, hội nhập quốc tế; thực sự coi trọng, phát huy hiệu quả vai trò của giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ trong phát triển đất nước; phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Đồng thời, phải đẩy mạnh thực hành dân chủ xã hội chủ nghĩa, đảm bảo cơ chế dân chủ được khẳng định trong thực tiễn đời sống xã hội; vai trò lãnh đạo của Đảng, Nhà nước quản lý và Nhân dân làm chủ luôn được phát huy.
Cùng với đó, Đảng, Nhà nước ta luôn chú trọng gắn kết chặt chẽ giữa phát triển kinh tế - xã hội theo hướng dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh với giữ vững trật tự, kỷ cương, an toàn, vì hạnh phúc của Nhân dân. Bởi, dân chủ, văn minh mà không công bằng, thì lẽ đương nhiên trật tự, kỷ cương, an toàn, hạnh phúc của người dân không được duy trì. Ngược lại, trật tự, kỷ cương, an toàn, hạnh phúc của người dân được thực hiện tốt thì nền kinh tế sẽ ngày càng giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, không ngừng được củng cố và tăng cường lên tầm cao mới.
Năm là, kiên định đấu tranh phòng, chống tham nhũng, suy thoái, "tự diễn biến”, “tự chuyển hóa ” trong nội bộ
Ngay sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á ra đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh hết sức coi trọng phòng, chống tham nhũng, lãng phí, coi đó là thứ “giặc nội xâm” cần phải “quét sạch” nhằm xây dựng một nhà nước vững mạnh, thực sự của dân, do dân và vì dân. Tư tưởng của Người về phòng, chống tham nhũng đã trở thành phương châm hành động, tư tưởng “dĩ bất biến” của Đảng ta trong suốt quá trình lãnh đạo đất nước. Qua các kỳ đại hội, nội dung phòng, chống tham nhũng luôn được đề cập, xác định chủ trương, biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo với quyết tâm chính trị cao. Sau 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, một trong những kinh nghiệm được rút ra trong công tác xây dựng Đảng, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là phải “đẩy mạnh phòng, chống tham nhũng, lãng phí”.
Tiếp nối tinh thần đó, trong các văn kiện trình Đại hội XIII của Đảng, công tác phòng, chống tham nhũng là nội dung quan trọng, với chủ trương là “tiếp tục đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực”. Theo đó, các cấp ủy, tổ chức đảng phải kiên quyết, kiên trì đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng, lãng phí, tiêu cực và các hành vi bao che, dung túng, tiếp tay cho tham nhũng, với quyết tâm chính trị cao hơn, mạnh mẽ hơn và hiệu quả hơn, đồng bộ các biện pháp cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức, hành chính, kinh tế, hình sự; gắn phòng, chống tham nhũng với phòng, chống suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Để làm tốt điều đó, cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức, tạo sự thống nhất cao về ý chí và hành động trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng, suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của cán bộ, đảng viên và Nhân dân; kiên trì giáo dục, rèn luyện lối sống trong sạch, lành mạnh, sống có trách nhiệm, lòng tự trọng cao, “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”’ khắc phục biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, chủ nghĩa cá nhân, “lợi ích nhóm”, v.v. Quy định rõ trách nhiệm của người đứng đầu trong kiểm tra, phát hiện, xử lý tham nhũng; kiểm soát hiệu quả tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, thanh tra, kiểm toán; đẩy mạnh điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án; nâng cao hiệu quả thu hồi tài sản tham nhũng. Nếu cơ quan, đơn vị nào để xảy ra tham nhũng, tiêu cực thì người lãnh đạo, quản lý ở đó phải xử lý, điều chuyển, thay thế nhằm làm trong sạch bộ máy nhà nước và chính quyền các cấp.
Sáu là, kiên định mục tiêu bảo vệ Tổ quốc, xây dựng Quân đội, Công an cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại
Cùng với phát triển kinh tế - xã hội, mục tiêu bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa phải được đặt lên hàng đầu, nhằm tạo môi trường hòa bình để xây dựng đất nước theo mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, nâng cao vị thế Việt Nam trên trường quốc tế. Tổng kết việc thực hiện Nghị quyết Đại hội XII, Đảng ta đánh giá: Quốc phòng, an ninh không ngừng được củng cố, kiên quyết, kiên trì giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Trong các văn kiện trình Đại hội XIII của Đảng, quan điểm chỉ đạo của Đảng ta là phải bảo đảm lợi ích quốc gia, dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng, cùng có lợi. Kiên quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Giữ vững an ninh chính trị, trật tự, kỷ cương; đảm bảo an ninh kinh tế, xã hội, an ninh mạng, an ninh con người, xây dựng xã hội trật tự, kỷ cương, an toàn, lành mạnh. Chủ động ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa; phát hiện sớm và xử lý kịp thời những nhân tố bất lợi, nhất là nhân tố bên trong có thể gây đột biến; đẩy mạnh đấu tranh làm thất bại âm mưu và hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch.
Với quan điểm đó, Đảng ta đã khẳng định quan điểm nhất quán, “dĩ bất biến” đối với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc; coi đó là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của Đảng, Nhà nước, hệ thống chính trị và toàn dân, lấy Quân đội nhân dân và Công an nhân dân làm nòng cốt. Phát huy cao nhất sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị, đồng thời kết hợp với sức mạnh thời đại, tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế để bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Tăng cường tiềm lực quốc phòng và an ninh; xây dựng vững chắc nền quốc phòng toàn dân gắn với nền an ninh nhân dân, thế trận lòng dân gắn với thế trận quốc phòng toàn thế trận an ninh nhân dân. Xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, chiến lược quốc phòng, an ninh, đối ngoại, bảo vệ Tổ quốc trong các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh. Đẩy mạnh phát triển công nghiệp quốc phòng, an ninh theo hướng tự chủ, tự cường, hiện đại và lưỡng dụng. Thực hiện toàn diện, đồng bộ các chiến lược: Quốc phòng, Quân sự, Bảo vệ an ninh quốc gia, Bảo vệ biên giới quốc gia, Bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng, v.v. Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước đối với Quân đội nhân dân, Công an nhân dân và sự nghiệp quốc phòng, an ninh. Xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, trong đó có một số quân chủng, binh chủng, lực lượng tiến thẳng lên hiện đại.
Thượng tướng NGUYỄN TRỌNG NGHĨA, Ủy viên Trung ương Đảng, Ủy viên Quân ủy Trung ương, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam
________________
1 - Hồ Chí Minh – Toàn tập, Tập 8, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 555.
Kỳ sau: Phần II - Tính “Vạn biến” trong các văn kiện trình Đại hội XIII của Đảng
Theo tạp chí QPTD