Nền kinh tế Việt Nam có xuất phát điểm từ nông nghiệp lúa nước lạc hậu. Đất nước bị chiến tranh tàn phá suốt mấy chục năm. Từ một xuất phát điểm thấp như vậy mà đến nay đã là nước có nước thu nhập trung bình của thế giới, mức sống người dân ngày càng được nâng lên, thành tựu ấy không phải quốc gia nào lâm vào hoàn cảnh ấy cũng làm được.    

Ngay từ năm 2006, Việt Nam đã tuyên bố hoàn thành Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ (MDGS) về xóa nghèo, về đích trước 10 năm so với thời hạn (năm 2015). Văn phòng Quốc gia về giảm nghèo (Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội) cho biết, đến cuối năm 2018, tỷ lệ hộ nghèo bình quân cả nước giảm còn khoảng 5,35%. Bình quân tỷ lệ hộ nghèo ở các huyện nghèo giảm còn dưới 35%. Bình quân tỷ lệ hộ nghèo ở các xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang ven biển và hải đảo, các xã đặc biệt khó khăn, xã biên giới, xã an toàn khu vùng dân tộc và miền núi giảm khoảng 3-4% so với năm 2017. 

{keywords}
“Việt Nam đã đạt được những kết quả to lớn trong việc giảm nghèo”

Trong năm 2019, tiếp tục phấn đấu giảm tỷ lệ hộ nghèo cả nước bình quân 1 - 1,5%/năm. Riêng các huyện nghèo, xã nghèo giảm 4%/năm. Tỷ lệ hộ nghèo dân tộc thiểu số giảm 3% đến 4% theo chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều giai đoạn 2016-2020. Cùng với đó, cần thực hiện cải thiện sinh kế và nâng cao chất lượng cuộc sống của người nghèo, bảo đảm thu nhập đầu người của hộ nghèo cả nước cuối năm 2020 tăng lên 1,5 lần so với cuối năm 2015. Riêng thu nhập của hộ nghèo ở các huyện nghèo, xã nghèo, thôn, bản đặc biệt khó khăn, hộ nghèo dân tộc thiểu số tăng gấp hai lần.

Báo cáo Chỉ số đói nghèo toàn cầu (GHI) 2019 của Cơ quan viện trợ Concern Worldwide từ Ailen và tổ chức Welt Hunger Hilfe của Đức cho biết Việt Nam đã cải thiện đáng kể chỉ số đói nghèo trong bảng xếp hạng đói nghèo toàn cầu, cao hơn 1 số nước khác trong khu vực Đông Nam Á. Theo báo cáo trên, Việt Nam đứng thứ 62, tăng hai bậc so với vị trí thứ 64 trên tổng số 119 nền kinh tế trong bảng xếp hạng toàn cầu. 

Để đạt được những thành tựu ấn tượng như vậy là nhờ Chính phủ Việt Nam chủ động, liên tục đổi mới các chính sách cho phù hợp từng giai đoạn, từ đó nâng cao hiệu quả giảm nghèo bền vững. Ngày 19-11-2015, một thay đổi có tính đột phá là Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định 59/2015/QĐ-TTg về chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều áp dụng cho giai đoạn 2016-2020. Theo đó xác định chuẩn nghèo mới thay thế cho chuẩn nghèo cũ với các tiêu chí thoát nghèo cao hơn. Cùng với đó đã xác định rõ 10 chỉ số đo lường mức độ thiếu hụt các dịch vụ xã hội cơ bản. Từ 10 chỉ số này để xác định mức độ thiếu hụt tiếp cập đối với 5 dịch vụ xã hội cơ bản bao gồm: Y tế, giáo dục, nhà ở, nước sạch và vệ sinh, thông tin.

Việc ban hành mức chuẩn nghèo mới và xác định những căn cứ để đo lường; giám sát mức độ thiếu hụt về thu nhập và tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản của người dân chính là cơ sở để thực hiện các chính sách giảm nghèo và an sinh xã hội bền vững, giảm nghèo đa chiều, cũng như hoạch định các chính sách kinh tế-xã hội khác trong giai đoạn 2016-2020.

Trong việc hoạch định các chính sách về xóa đói, giảm nghèo cũng đã có những thay đổi rất căn bản. Để nâng cao hiệu quả của chính sách, Chính phủ đã gộp tất cả các chương trình xóa đói, giảm nghèo lại thành một chương trình là “Chương trình mục tiêu quốc gia Giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016-2020” (Theo Quyết định 1722-QĐ/TTg, ngày 2-9-2016 của Thủ tướng Chính phủ), với một đầu mối quản lý chung nhất là Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội.

Trong đó bao gồm 5 dự án thành phần là: Chương trình 30a (giảm nghèo nhanh và bền vững cho các huyện nghèo); Chương trình 135 (Chương trình phát triển kinh tế xã hội các xã đặc biệt khó khăn vùng dân tộc thiểu số và miền núi); Hỗ trợ phát triển sản xuất, đa dạng hóa sinh kế và nhân rộng mô hình giảm nghèo trên địa bàn các xã ngoài Chương trình 30a và Chương trình 135; Truyền thông và giảm nghèo về thông tin; Nâng cao năng lực và giám sát, đánh giá thực hiện chương trình.

Chính phủ Việt Nam đề ra Chương trình mục tiêu Quốc gia giảm nghèo bền vững (giai đoạn 2016-2020), với số vốn 41.449 tỷ đồng (đã giao cho chương trình trong 2 năm 2016-2017 là 14.584 tỷ đồng). Ngoài ra, Nhà nước còn bố trí 44.214 tỷ đồng để thực hiện chính sách giảm nghèo thường xuyên, hỗ trợ người nghèo về y tế, giáo dục, nhà ở, tín dụng.

Các địa phương trong cả nước còn huy động được khoảng hơn 7.303 tỷ đồng, trong đó, chi hoạt động an sinh xã hội, giảm nghèo hơn 5.560 tỷ đồng trong các năm 2016 và 2017. Các chương trình như: Xây dựng nông thôn mới, cho các hộ nghèo vay vốn để có sinh kế... đã giúp phát triển hạ tầng ở các vùng quê mà người dân cũng từng bước có sinh kế bền vững. Một điều thú vị là tại Việt Nam, mạng viễn thông 4G, 3G được đưa tới tận vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo. Có nghĩa là internet tốc độ cao có mặt ở khắp nơi tại Việt Nam với giá rẻ, khiến mọi người dân đều có thể tiếp cận, sử dụng.

Có một thực tế, các địa phương là những cái nôi của cách mạng thường nằm ở vùng sâu, vùng xa, miền núi, có điều kiện tự nhiên rất khó khăn, giao thông đi lại chưa thuận lợi, đồng bào dân tộc thiểu số sống phân tán, trình độ dân trí nhìn chung còn chưa cao nên gặp nhiều khó khăn trong phát triển kinh tế, thoát nghèo.

Hơn nữa, tại những nơi này thường xuyên xảy ra thiên tai, chỉ cần một trận bão, lũ có thể khiến những thành quả xây dựng kinh tế, thoát nghèo trở về con số không. Do đó, để các địa phương trên thoát nghèo bền vững cần nỗ lực thường xuyên của cả hệ thống chính trị và người dân.

Trong Chỉ thị số 01/CT-TTg ngày 6-1-2017, Thủ tướng Chính phủ đã nhấn mạnh việc phát động Phong trào thi đua “Cả nước chung tay vì người nghèo-Không để ai bị bỏ lại phía sau”.

“Không để ai bị bỏ lại phía sau” thực chất luôn là phương châm hành động, luôn là quyết tâm của cả hệ thống chính trị Việt Nam, để mọi địa phương, mọi người dân Việt Nam đều được hưởng thành quả của phát triển kinh tế. 

Hòa Bình