Sau 17 năm hoạt động, tín dụng chính sách xã hội thu được nhiều kết quả nổi bật và đang là “điểm sáng”, một trong những “trụ cột” trong hệ thống các chính sách giảm nghèo ở Việt Nam hiện nay.

{keywords}
Tín dụng chính sách xã hội là chủ trương lớn của Đảng và Chính phủ về chính sách tín dụng ưu đãi, nhằm mục tiêu xóa đói, giảm nghèo. 

Triển khai tín dụng chính sách xã hội

Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam triển khai cho vay vốn tín dụng giành cho các đối tượng chính sách xã hội nói chung và đồng bào dân tộc thiểu số nói riêng. Đến nay, tín dụng chính sách xã hội đến được 100% số xã, phường, thị trấn trên toàn quốc, trong đó tập trung ưu tiên cho vay khu vực dân tộc thiểu số và miền núi, vùng khó khăn, vùng sâu, vùng xa, biên giới.

Theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Chương trình Mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016 - 2020 có mục tiêu tổng quát: Thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững, hạn chế tái nghèo; góp phần thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội, cải thiện đời sống, tăng thu nhập của người dân, đặc biệt là ở các địa bàn nghèo, tạo điều kiện cho người nghèo, hộ nghèo tiếp cận thuận lợi các dịch vụ xã hội cơ bản (y tế, giáo dục, nhà ở, nước sinh hoạt và vệ sinh, tiếp cận thông tin), góp phần hoàn thành mục tiêu giảm tỷ lệ hộ nghèo giai đoạn 2016 - 2020 theo Nghị quyết Quốc hội đề ra.

Trên cơ sở các nguồn lực huy động được, Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam triển khai 20 chương trình tín dụng, trong đó tập trung cho các chương trình tín dụng lớn, như: Cho vay hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo; chương trình nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn; giải quyết việc làm; tín dụng học sinh - sinh viên; tín dụng đối với vùng khó khăn; cho vay hỗ trợ nhà ở cho người nghèo; tín dụng chính sách xã hội dành riêng cho hộ đồng bào dân tộc thiểu số với số dư nợ chiếm tới 98%...

Từ 3 chương trình tín dụng nhận bàn giao: chương trình hộ nghèo từ Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, chương trình cho học sinh sinh viên vay vốn học tập từ Ngân hàng Công Thương Việt Nam, chương trình cho vay giải quyết việc làm từ Kho bạc Nhà nước, đến nay tín dụng chính sách xã hội đã và đang triển khai thực hiện hơn 20 chương trình và một số chương trình, dự án do các địa phương, tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước ủy thác cho Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam thực hiện. Bên cạnh việc gia tăng về số lượng, chất lượng tín dụng cũng được tăng lên, đúng đối tượng, nợ quá hạn chỉ 0,4% và nợ khoanh chỉ 0,33%, hầu như không có nợ xấu.

Về tín dụng chính sách đối với đồng bào dân tộc thiểu số, tính đến cuối tháng 8-2019, trên địa bàn cả nước có trên 1,4 triệu khách hàng là hộ đồng bào dân tộc thiểu số đang thụ hưởng hầu hết các chương trình tín dụng tại Ngân hàng Chính sách xã hội, với doanh số cho vay là 135.964 tỷ đồng, doanh số thu nợ là 86.061 tỷ đồng và tổng dư nợ đạt 49.617 tỷ đồng, chiếm 24,8%/tổng dư nợ của Ngân hàng Chính sách xã hội. Dư nợ bình quân một hộ dân tộc thiểu số đạt 34 triệu đồng so với mức bình quân chung là 30,4 triệu đồng.

Hiệu quả vốn tín dụng chính sách xã hội

Ngân hàng Chính sách xã hội và chính sách tín dụng ưu đãi là một trụ cột quan trọng của Chương trình Mục tiêu quốc gia về giảm nghèo bền vững.

Nhờ trụ cột này, giai đoạn 2015 - 2018, số hộ nghèo giảm rất nhanh, góp phần đẩy lùi, ngăn chặn “tín dụng đen”, tạo nguồn lực cho các địa phương thực hiện Chương trình Mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, giảm nghèo bền vững gắn với các đề án phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho người dân. Số vốn tín dụng chính sách xã hội nói trên đã góp phần giúp trên một triệu hộ vượt qua ngưỡng nghèo; thu hút, tạo việc làm cho trên 775 nghìn lao động, trong đó có hơn 17 nghìn lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài; gần 200 nghìn học sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn được vay vốn học tập; xây dựng gần 4,9 triệu công trình nước sạch, vệ sinh môi trường nông thôn; trên 108 nghìn căn nhà ở cho hộ nghèo.

Chính sách tín dụng cho hộ nghèo là chính sách được triển khai rộng rãi nhất, đáp ứng một lượng lớn nhu cầu vốn cho người nghèo, tác động trực tiếp và mang lại hiệu quả thiết thực, là điểm sáng trong các chính sách giảm nghèo. Đây cũng là chính sách xây dựng được mối liên kết tốt giữa Nhà nước - thông qua Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam - với các tổ chức đoàn thể và người nghèo, phát huy được tính chủ động, nâng cao trách nhiệm của người nghèo đối với chính quyền cơ sở qua việc giữ mối liên hệ, hướng dẫn làm ăn, đôn đốc giải ngân, thu nợ của ngân hàng.

Các chương trình tín dụng chính sách xã hội đã góp phần giảm tỷ lệ hộ nghèo giai đoạn 2011 - 2015 từ 14,2% xuống còn 4,25%; tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn nghèo đa chiều giảm từ 9,88% năm 2015 xuống còn 5,23% năm 2018. Từ năm 2016 đến nay, tỷ lệ giảm nghèo luôn đạt và vượt chỉ tiêu Quốc hội giao hằng năm, cũng như mục tiêu tại Chương trình Mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững. Cụ thể, tỷ lệ giảm nghèo bình quân cả nước đạt trên 1,5%/năm, riêng huyện nghèo bình quân giảm ở mức rất cao là 5,5%/năm.

Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam phối hợp chặt chẽ với các tổ chức chính trị - xã hội tập trung các nguồn lực, đẩy mạnh thực hiện các chương trình tín dụng chính sách xã hội, góp phần phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững, xây dựng nông thôn mới, bảo đảm an sinh xã hội với gần 11.000 điểm giao dịch tại các xã, phường, thị trấn trong toàn quốc và gần 200.000 tổ tiết kiệm và vay vốn hoạt động tại 100% thôn, ấp, bản, làng.

Với mục tiêu thực hiện xây dựng nông thôn mới, nguồn vốn tín dụng ngân hàng trở thành nguồn lực quan trọng, chiếm trên 50% tổng nguồn lực của các chương trình này, đạt 1,18 triệu tỷ đồng. Cùng nguồn hỗ trợ trực tiếp từ ngân sách nhà nước, nguồn vốn tín dụng ngân hàng đã góp phần hoàn thành sớm các mục tiêu của Chương trình Mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2016 - 2020.

Tín dụng chính sách xã hội tạo được lòng tin của nhân dân đối với Đảng; hệ thống chính trị ngày càng được củng cố; vai trò của các tổ chức đoàn thể: Hội Nông dân, Hội Phụ nữ, Hội Cựu chiến bình, Đoàn Thanh niên được nâng lên, hoạt động thiết thực đối với hội viên; khối đại đoàn kết toàn dân tộc không ngừng được tăng cao.

Chính sách tín dụng có bước chuyển quan trọng, thay đổi được nhận thức của người dân, thay đổi sinh kế và thay đổi cuộc đời. Thay vì một chính sách bao cấp không hoàn lại, người dân đã có ý thức trả nợ. Nguồn lực này không chỉ cho vay mà còn gắn với việc chuyển giao kỹ thuật, hỗ trợ cho bà con sinh kế, đồng thời gắn với bảo vệ môi trường, từ đó mang lại hiệu quả lớn, đời sống bà con được cải thiện nâng cao, thoát nghèo bền vững hơn.

Đối với đồng bào dân tộc thiểu số, tính đến nay, có trên 2 triệu hộ thoát nghèo, thu hút và tạo việc làm cho trên 162 nghìn lao động, trong đó có hơn 16 nghìn lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài; giúp trên 211 nghìn học sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn là con em hộ dân tộc thiểu số được vay vốn học tập; xây dựng hơn 1,3 triệu công trình nước sạch, vệ sinh môi trường nông thôn; xây dựng hơn 215 nghìn căn nhà ở...

Có thể nói, vốn tín dụng chính sách xã hội từng bước làm thay đổi căn bản nhận thức của đồng bào dân tộc thiểu số từ mặc cảm, tự ti, nay mạnh dạn vay vốn và làm ăn có hiệu quả; giúp đồng bào dần nâng cao chất lượng cuộc sống; nâng cao trình độ quản lý sản xuất, kinh doanh, cũng như trình độ quản lý vốn để dần vươn lên thoát nghèo, làm giàu trên chính quê hương mình, góp phần ngăn chặn tệ nạn cho vay nặng lãi ở vùng nông thôn, vùng dân tộc thiểu số...

Kim Chi