- Trên thực tế, từ việc tự vạch đường chữ U cho tới cách nói về "lợi ích cốt lõi" đều là chuyện "mua dây buộc mình" của TQ.

Cả ba cách giải thích về yêu sách của đường lưỡi bò đều không chấp nhận được.

Cách giải thích thứ nhất là điều cộng đồng quốc tế không thể chấp nhận, chà đạp lên những thành quả xây dựng một trật tự pháp lý mới trên biển được quy định trong Công ước LHQ về Luật biển năm 1982 mà TQ cũng là một thành viên.

Một đường yêu sách biển phải có cơ sở dựa trên chủ quyền các vùng đất, các cấu tạo địa lý, theo nguyên tắc “đất thống trị biển”. Đường lưỡi bò được vẽ theo một nguyên tắc trái ngược với luật biển quốc tế. Tự tiện khoanh vùng biển để đòi chủ quyền tất cả các địa vật, các cấu tạo địa lý trong đường lưỡi bò trong khi không đáp ứng các tiêu chuẩn thụ đắc lãnh thổ, chiếm hữu thực sự của luật quốc tế. 

{keywords}
Người Việt biểu tình tại Paris phản đối TQ hạ đặt trái phép giàn khoan trong vùng biển VN ngày 16/5. Ảnh: Nguyễn Thị Huệ - Hiệu Constant

Cách giải thích thứ hai cho đường lưỡi bò là đường biên giới trên biển, toàn bộ vùng nước bên trong là vùng nước lịch sử theo chế độ nội thủy. Theo luật pháp quốc tế, một vịnh hay một vùng nước được coi là lịch sử, căn cứ vào tập quán và các phán quyết của Tòa án và Trọng tài quốc tế phải thỏa mãn ít nhất 2 điều kiện.

Đó là "Tại đó quốc gia ven biển thực hiện một cách thực sự chủ quyền của mình một cách liên tục, hòa bình và lâu dài" và "Có sự chấp nhận công khai hoặc sự im lặng không phản đối của các quốc gia khác, nhất là các quốc gia láng giềng và có quyền lợi tại vùng biển này".

Không có bằng chứng thuyết phục

Về điều kiện thứ nhất, TQ phải chứng minh được các chính quyền của họ đã thực thi chủ quyền trên toàn bộ Biển Đông này một cách thực sự, liên tục và hòa bình trong thời gian dài. Điều này thật khó. Bởi các văn kiện chính thức của nhà nước phong kiến TQ, như Đại Nguyên nhất thống chí (1294), Đại Minh Nhất thống chí (1461), Đại Thanh Nhất thống chí (1842), trước năm 1909 đều khẳng định “cực Nam của lãnh thổ TQ là Nhai huyện, đảo Hải Nam”.

Các bản đồ lãnh thổ TQ của người nước ngoài cùng thời cũng vẽ và giải thích phù hợp với cách hiểu này của người TQ. Bản đồ TQ thế kỷ XVII của Peter de Goyer và Jacob de Keyzer thuộc công ty Đông ấn - Hà Lan cũng có lời giải thích rất rõ: “Nơi xa nhất của TQ bắt đầu từ phía Nam đảo Hải Nam ở 18 độ vĩ Bắc, rồi từ đó ngược lên phía Bắc đến vĩ độ 42 độ. TQ chỉ thực sự bước chân lên quần đảo Hoàng Sa năm 1909 khi quần đảo này đã thuộc VN, không còn là đất vô chủ.

Về Trường Sa, cho tới tận năm 1932, công hàm ngày 29/9/1932 của Phái đoàn ngoại giao Trung Hoa Dân quốc tại Paris vẫn còn khẳng định các nhóm đảo “Amphitrite” (Lưỡi liềm) và “Croissant” (An Vĩnh) của quần đảo Tây Sa (Hoàng Sa) “tạo thành phần lãnh thổ TQ nằm tận cùng ở phía Nam”. TQ lần đầu tiên đặt chân lên quần đảo này năm 1988 cũng bằng hành động sử dụng vũ lực trái với Hiến chương LHQ.

TQ đã không đưa ra được các bằng chứng nào có sức thuyết phục về việc họ đã thực thi chủ quyền trên toàn bộ vùng biển rộng lớn này một cách liên tục, hòa bình từ thời xa xưa. Các sách Hán văn cổ đều ghi nhận các hoạt động của dân đánh cá và dân buôn Ả Rập, Ấn Độ, Malaysia, Việt Nam và vùng Vịnh trong vùng biển này, không có một bằng chứng nào cho thấy Biển Đông hoàn toàn là “ao hồ TQ”.

Các chính quyền phong kiến TQ cũng không thiết lập hoặc duy trì có lợi cho họ một sự độc tôn nào trong vùng biển này, khả dĩ có thể loại bỏ hoạt động khai thác của các đội Hoàng Sa và Bắc Hải của triều Nguyễn. Ngược lại còn có những hành động thừa nhận tính hợp pháp của các hoạt động đó như trường hợp năm 1774: quan huyện Văn Xương giúp đội viên đội Hoàng Sa khi đi làm nhiệm vụ bị bão dạt vào đất TQ.

Đường lưỡi bò của TQ không phải là một con đường có tính ổn định và xác định. Từ 11 đoạn nó đã phải bỏ đi 2 đoạn trong vịnh Bắc Bộ rồi lại thêm đoạn thứ 10 trong năm 2014. Tính chất không liên tục của đường này được các tác giả TQ giải thích để cho “những điều chỉnh cần thiết trong tương lai”.

Một con đường như vậy rõ ràng không thể nào lại được coi là “biên giới quốc gia” theo luật pháp quốc tế. Đặc tính quan trọng nhất của một đường biên giới quốc tế là tính ổn định và dứt khoát. Trong một xã hội có trật tự riêng, các đường biên giới là một trong số các thể chế ổn định nhất từ tất cả các thể chế. Vậy mà ở đây đến cả người TQ, tác giả của đường này còn chưa biết nó đi thế nào, thì sao có thể gọi đó là biên giới quốc gia được.

Hành vi bí mật không thể tạo quyền lịch sử

Về điều kiện thứ hai, TQ chưa bao giờ công bố chính thức yêu sách Biển Đông theo đường lưỡi bò. Theo luật pháp quốc tế, các hành vi mà quốc gia thể hiện phải mang tính công khai ý chí thực thi chủ quyền trên lãnh thổ đó. Các hành vi này phải có tiếng vang như những hành vi bình thường của một quốc gia.

Những hành vi bí mật không thể tạo nên cơ sở cho quyền lịch sử; ít nhất các quốc gia khác phải có cơ hội để biết được cái gì đang diễn ra. Các học giả TQ mặc nhận rằng con đường này tồn tại từ lâu mà không có quốc gia nào phản đối.

Tuy nhiên, luật pháp quốc tế cho rằng một yêu sách phải được tuyên bố rõ ràng, không mập mờ, chính thức và được duy trì trong một thời gian dài đủ để quốc gia có ý kiến bất đồng phải đưa ra ý kiến chính thức của họ. Đường chữ U có nguồn gốc từ một bản đồ tư nhân, liệu có phải là cái để các quốc gia khác có ý kiến.

Vào thời điểm đường lưỡi bò đang được Bộ Nội vụ Trung Hoa in trên bản đồ, Pháp đã đưa tàu và quân ra đóng giữ đảo Hoàng Sa, Trường Sa, tiếp tục duy trì danh nghĩa chủ quyền kế thừa từ Nhà nước phong kiến An Nam và hoạt động chiếm hữu theo luật quốc tế của Pháp năm 1933.

Hoạt động thực tiễn này chẳng phải là sự phản đối hùng hồn ý định yêu sách hai quần đảo bằng cách vẽ đường chữ U từ phía nước láng giềng phương Bắc đó sao. Hiệp ước hòa bình San Francisco 1951 không đả động chút gì tới đường lưỡi bò. Ngay cả Tuyên bố của Thủ tướng Chu Ân Lai năm 1951 về dự thảo Hiệp ước San Francisco cũng đâu có nhắc gì đến đường chữ U.

Cuộc bỏ phiếu giao Hoàng Sa, Trường Sa cho TQ tại Hội nghị San Francisco theo đề nghị của Bộ trưởng Ngoại giao Xô Viết Gromuko đã bị đa số bác bỏ (46 chống, 3 ủng hộ, 1 trắng). Vì vậy không thể nói đã có sự công nhận quốc tế về chủ quyền TQ trên các đảo trong Biển Đông chứ đừng nói gì đến đường chữ U hay toàn bộ vùng biển trong đường chữ U.

Thực tế tranh chấp giữa VN và TQ về chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cũng như đòi hỏi của Philippines, Malaysia đối với hầu như toàn bộ hoặc một bộ phận của quần đảo Trường Sa cho thấy không thể nói đường chữ U trên Biển Đông mà TQ vạch ra đã được các nước khác công nhận.

Ngay cả những nước không liên quan gì đến tranh chấp cũng thể hiện quan điểm không đồng tình. Mỹ không công nhận bất kỳ vùng biển nào không gắn với đất liền và đảo.

Trong lập luận của mình, các học giả TQ đã viện dẫn một số trường hợp yêu sách vịnh lịch sử trong thực tiễn quốc tế như trường hợp yêu sách của Liên Xô ngày 20/7/1957 đối với vịnh Pierre Đại yêu sách của Lybia ngày 11/10/1973 đối với vịnh Sidra.

Theo họ, các vấn đề này chứng tỏ rằng trong thực tiễn quốc tế luật về các vịnh lịch sử đã có một quy chế pháp lý riêng biệt và như vậy yêu sách đường lưỡi bò của TQ là hợp pháp. Lập luận này quá đơn giản và chỉ viện dẫn được 15 trường hợp yêu sách quá đáng vùng vinh lịch sử và đều đã bị luật quốc tế phê phán.

Các trường hợp này không đủ tạo nên một ý thức pháp luật và một thực tiễn pháp lý không đổi nên chúng không bao giờ được luật quốc tế chấp nhận như một quy tắc tập quán. Vì vậy lập luận của các học giả TQ ngay từ đầu đã không có tính logic. Trong tài liệu chuẩn bị cho hội nghị lần thứ nhất của LHQ về luật biển năm 1958 trong danh sách các vùng nước lịch sử của thế giới không có tên một vùng nước nào trong Biển Đông.

Vùng nước nằm trong đường lưỡi bò chiếm 80% và từ 2014 là 90% diện tích Biển Đông mà TQ cho là “vùng nước lịch sử” là không thể chấp nhận. Luật quốc tế không hề biết đến một vùng nước lịch sử lớn đến như vậy. Yêu sách biến Biển Đông thành ao nhà của TQ là đi ngược lại với học thuyết các vùng nước lịch sử. Cộng đồng quốc tế chưa bao giờ ghi nhận một yêu sách như vậy và sẽ không chấp nhận một khoảng không gian rộng lớn như Biển Đông, biển lớn nhất nhì thế giới nằm dưới quyền tài phán của một quốc gia khác.

UNCLOS không bảo vệ danh nghĩa lịch sử của TQ

Cách giải thích thứ ba đưa đến những mâu thuẫn trong phát biểu và hành động của TQ. Nếu đã có quyền lịch sử thì sao lại phải xác định quyền chủ quyền về kinh tế theo luật biển hiện đại. Ngày 15/6/1996, TQ phê chuẩn Công ước LHQ về Luật biển năm 1982 và ban hành Quy định về hệ thống đường cơ sở để tính chiều rộng lãnh hải, bao gồm quần đảo Tây Sa (Hoàng Sa).

Quy định đường cơ sở của TQ ở quần đảo Hoàng Sa đã vi phạm hai nguyên tắc cơ bản: đó là sự vi phạm chủ quyền lãnh thổ của VN và cũng là sự vi phạm các quy định của luật biển quốc tế về áp dụng đường cơ sở của quốc gia quần đảo cho một quần đảo thuộc một quốc gia biển.

Tuyên bố về đường cơ sở ngày 15/5/1996 của TQ áp dụng đối với cả quần đảo Hoàng Sa của VN cho thấy việc TQ yêu sách một vùng nội thủy nằm trong một vùng nước lịch sử có cùng chế độ nội thủy là một mâu thuẫn lớn trong lập trường của họ. Lập trường này của TQ cũng mâu thuẫn ngay với chính các tuyên bố của TQ về việc tàu chiến Mỹ đã vi phạm vùng đặc quyền kinh tế của TQ trong vụ ngày 8/3/2009. Chẳng lẽ cùng lúc TQ lại yêu sách một vùng biển với hai chế độ pháp lý khác nhau: quyền chủ quyền trong vùng đặc quyền kinh tế nằm trong vùng nước nội thủy có tính chất chủ quyền.

Yêu sách này của TQ mâu thuẫn với chính lập trường của TQ khi phản đối hồ sơ ranh giới ngoài thềm lục địa của Nhật Bản tháng 3/2009. Điều 15 Công ước Luật biển 1982 quy định: Khi hai quốc gia có bờ biển kề nhau hoặc đối diện nhau, không quốc gia nào được quyền mở rộng lãnh hải ra quá đường trung tuyến mà mọi điểm nằm trên đó cách đều các điểm gần nhất của các đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải của mỗi quốc gia, trừ khi có sự thỏa thuận ngược lại.

Tuy nhiên, quy định này không áp dụng trong trường hợp do có những danh nghĩa lịch sử hoặc có các hoàn cảnh đặc biệt khác cần phải hoạch định ranh giới lãnh hải của hai quốc gia một cách khác.

Không có bất kỳ một quy định nào viện dẫn danh nghĩa lịch sử cho vùng biển rộng hơn 12 hải lý chứ đừng nói cách bờ vài trăm hải lý như đường lưỡi bò. Cho nên không thể nói Công ước luật biển công nhận và bảo vệ cho danh nghĩa lịch sử của TQ.

Đường lưỡi bò mà TQ yêu sách chạy sát bờ biển của các nước, có đoạn chỉ cách bờ biển VN khoảng 50 - 100 km, trong khi Trường Sa cách bờ VN khoảng trên 200 hải lý. Đường này còn chạy sát bãi Shoal James (Tăng Mẫu) của Malaysia và đảo Natuna của Indonesia, quần đảo Philippines gây lo ngại sâu sắc cho các nước trong khu vực.

Vì vậy, thật khó có thể đồng ý với các học giả TQ, con đường này được vạch “theo cách gần như là đường cách đều giữa rìa ngoài của bốn quần đảo trong biển Nam Trung Hoa với đường bờ biển của các quốc gia kế cận, phù hợp với các công ước quốc tế”. Trước hết, các công ước quốc tế cũng như thực tế xét xử của các cơ quan tài phán quốc tế không trù định quyền ưu tiên của phương pháp đường cách đều trong phân định nhất là trong trường hợp có các danh nghĩa lịch sử.

TQ khẳng định xây dựng yêu sách của mình trên cơ sở “danh nghĩa lịch sử”, đồng thời lại áp dụng phương pháp đường cách đều để phân định, phủ nhận danh nghĩa lịch sử đó. Thật là không nhất quán. Thứ hai, nếu vẽ đúng kỹ thuật, con đường này hoàn toàn không thể là con đường cách đều giữa các đảo nằm giữa Biển Đông với bờ biển của các nước xung quanh. Đó là chưa kể đến điều 121 của Công ước của LHQ về luật biển 1982 quy định rằng những đảo, đá nào không thích hợp cho con người đến ở hoặc cho một đời sống kinh tế riêng thì chỉ có lãnh hải rộng không quá 12 hải lý.

Mua dây buộc mình

Rõ ràng nguồn gốc và ý nghĩa của đường lưỡi bò này hoàn toàn mập mờ, không chính xác đến nỗi bản thân các học giả TQ cũng không thống nhất được một giải thích hợp lý nào và cũng phải thừa nhận “trong vấn đề Biển Đông, bản thân TQ không có lập trường rõ ràng, tiền hậu bất nhất, gây tổn hại nghiêm trọng tới uy tín quốc tế của TQ”.

Trần Phả trong Tạp chí "Khai Phóng" số tháng 7/2011 của Hồng Kông bình luận: Câu hỏi đặt ra là liệu việc TQ vẽ đường phạm vi chủ quyền Biển Đông (đường chữ U) tới “cửa nhà” của các nước như VN, Philippines, Malaysia và Brunei có hợp tới tình hình khách quan hay không?

Đối chiếu với các quy định bằng văn bản rõ ràng liên quan tới việc “các nước có vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý” trong Công ước LHQ về Luật Biển mà TQ ký từ năm 1982, TQ càng khó có thể bào chữa cho kiểu hoạch định này của mình. Trên thực tế, từ việc tự vạch đường chữ U cho tới cách nói về “lợi ích cốt lõi” đều là chuyện “mua dây buộc mình” của TQ”. Tống Yên Huy (Yann Huei Song) còn cho rằng “không có cơ sở nào trong luật quốc tế cho yêu sách lịch sử đó”.

Thế nhưng một số học giả TQ vẫn tiếp tục biện minh: “Tất cả các nước ký UNCLOS nên hiểu rằng, công ước chỉ là một trong các luật pháp về biển của quốc tế (vốn không chỉ có một) và vì thế nên ngừng nghi ngờ về tính hợp pháp về đường chín đoạn của TQ”. Liệu có thể hiểu rằng, theo ý tác giả, TQ nước ký Công ước Luật biển có quyền muốn áp dụng hay không áp dụng Công ước luật biển một cách tùy thích trong khi Công ước là một biện pháp cả gói, không có bảo lưu?

Để cộng đồng thế giới ngừng nghi ngờ về tính hợp pháp về đường lưỡi bò của TQ, trước hết người TQ nên nói rõ họ đòi hỏi cái gì ở Biển Đông, dựa trên những bằng chứng pháp lý nào chứ không phải những bằng cứ lịch sử mơ hồ.

Nếu TQ tự tin vào đường lưỡi bò của mình, hãy sẵn sàng bàn thảo đa phương với các nước liên quan cũng như đáp ứng lời kêu gọi của Philippines về một thủ tục trọng tài chứ không phải chỉ dùng vũ lực để áp đặt các luật lệ riêng của mình lên các nước khác.

Nguyễn Hồng Thao