Theo phân tích của Cục Công nghiệp, hợp tác giữa Việt Nam – Nhật Bản trong lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ (CNHT) đã được triển khai từ lâu và trải qua nhiều chương trình hợp tác quốc tế.
Tuy nhiên, trong lĩnh vực CNHT, kết quả vẫn chưa như kỳ vọng. Đa phần, doanh nghiệp Việt dừng lại ở việc thực hiện gia công sản phẩm theo yêu cầu của đối tác Nhật Bản.
Cục Công nghiệp đánh giá, các sản phẩm gia công không đòi hỏi công nghệ và kỹ thuật phức tạp, đối tác Nhật Bản thuê doanh nghiệp Việt Nam gia công sản phẩm để tận dụng nguồn lao động giá rẻ và có tay nghề của Việt Nam. Do vậy, giá trị gia tăng của doanh nghiệp Việt Nam tạo ra không được lớn như kỳ vọng.
Sản xuất tại nhà máy Canon Việt Nam |
Plần lớn các doanh nghiệp CNHT Việt Nam có quy mô nhỏ, với thiết bị máy móc và công nghệ lạc hậu. Chính vì thế, chất lượng sản phẩm gia công so với yêu cầu đối tác đặt ra chênh lệch rất lớn. Liên kết ngành rời rạc, thiếu quy hoạch tổng thể. Bên cạnh đó, môi trường pháp lý chưa thực sự thuận lợi cho nhà đầu tư nước ngoài.
Hiện nay, các cam kết của Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện Việt Nam - Nhật Bản (VJEPA), hay các nội dung trong Chiến lược công nghiệp hóa trong khuôn khổ hợp tác Việt – Nhật cũng như Sáng kiến chung Việt Nam – Nhật Bản là cầu nối quan trọng, mở ra những cơ hội hợp tác, chuyển giao công nghệ, nâng cao năng lực sản xuất cho doanh nghiệp hai nước.
Trong 6 ngành ưu tiên của Chiến lược công nghiệp hóa trong khuôn khổ hợp tác Việt – Nhật bao gồm Điện tử; Máy nông nghiệp; Chế biến nông, thủy sản; Đóng tàu; Môi trường và tiết kiệm năng lượng; Sản xuất ô tô và phụ tùng ô tô, thì có 3 ngành: Điện tử; Máy nông nghiệp; Sản xuất ô tô và phụ tùng ô tô là liên quan đến CNHT.
Tại cuộc họp giữa kỳ Sáng kiến chung Việt– Nhật giai đoạn 7 vào đầu năm 2019, Việt Nam và Nhật Bản đã nhất trí triển khai nhiều nội dung nhằm phát triển mạnh mẽ ngành công nghiệp hỗ trợ Việt Nam, bao gồm hỗ trợ đầu tư thiết bị đồ gá, khuôn đúc...; đào tạo nguồn nhân lực trong lĩnh vực quản lý kinh doanh; thu hút đầu tư, xúc tiến phát triển thị trường nhằm tăng doanh số và giảm chi phí sản xuất...
Làn sóng đầu tư của doanh nghiệp Nhật Bản vào Việt Nam ngày càng mạnh mẽ. Hiện nay xuất hiện thêm làn sóng mới khi nhiều doanh nghiệp Nhật Bản muốn dịch chuyển chuỗi cung ứng sang Việt Nam và các nước ASEAN, giảm thiểu rủi ro khi quá phụ thuộc vào thị trường Trung Quốc (do các tác động tiêu cực của dịch Covid-19 làm gián đoạn chuỗi cung ứng, chiến tranh thương mại Mỹ - Trung...).
Đây cũng là cơ hội để DN CNHT Việt Nam đón đầu làn sóng này và tiếp cận các yếu tố thuận lợi để nắm bắt, chuyển giao công nghệ.
Theo khuyến nghị của tham tán thương mại Việt Nam tại Nhật, các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ của Việt Nam cần phải đầu tư thêm chi phí cho mảng nghiên cứu và phát triển, đầu tư trang thiết bị hiện đại, để có thể gia tăng hàm lượng kỹ thuật, hàm lượng công nghệ trong các sản phẩm của mình. Khi đó các doanh nghiệp Việt Nam sẽ có khả năng gia công và xuất khẩu các sản phẩm có giá trị cao hơn, để từ đó có thể trở thành đối tác liên doanh, liên kết bình đẳng với các doanh nghiệp Nhật Bản.
Trong quá trình đàm phán, trao đổi, đối tác Nhật thường đưa ra các yêu cầu, đề nghị; ví dụ, yêu cầu thay đổi mẫu mã hoặc kích thước sản phẩm cho phù hợp với thị hiếu của người Nhật.
Nhu cầu của người tiêu dùng Nhật Bản ngày nay đã có sự thay đổi từ nhập số lượng lớn sang nhập nhiều chủng loại hàng với số lượng nhỏ hơn để đáp ứng sở thích cá nhân. Bên cạnh đó, người Nhật cũng quan tâm đến mức giá. Do vậy để tăng sức cạnh tranh cho sản phẩm của doanh nghiệp, điều quan trọng là phải tăng năng suất, hiệu suất và cần phải có hệ thống sản xuất giá thành thấp.
Hiểu biết thấu đáo về văn hóa, tập quán kinh doanh của Nhật Bản là vô cùng quan trọng. Cách trao danh thiếp, mang theo catalogue công ty, đúng giờ hẹn...là những yếu tố không thể thiếu để tạo lòng tin từ lần gặp gỡ đầu tiên. Ngoài ra, có những trường hợp đối tác Nhật Bản có thể yêu cầu gửi hàng mẫu nhiều lần rồi mới xem xét hợp tác. Khi đã có quan hệ hợp tác với đối tác Nhật Bản thì doanh nghiệp Việt Nam cần phải chú trọng để duy trì mối quan hệ đó một cách lâu dài.
Các doanh nghiệp cũng cần tích cực tham gia các Hội chợ triển lãm quốc tế giới thiệu hàng hóa sản phẩm của mình với các khách hàng Nhật Bản, chủ động tìm đến với thị trường và tiếp xúc bạn hàng, người tiêu dùng sẽ mang lại cơ hội kinh doanh và thành công cho doanh nghiệp. Các hội chợ triển lãm về CNHT cũng thường xuyên diễn ra tại Nhật Bản, không chỉ riêng ở Tokyo mà còn ở nhiều thành phố lớn của Nhật.
Đặc biệt, cần khai thác triệt để các ưu đãi trong cam kết của các Hiệp định song phương, đa phương mà Việt Nam và Nhật Bản cùng là thành viên như Hiệp định đối tác kinh tế Việt Nam – Nhật Bản (VJEPA), Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện ASEAN – Nhật Bản (AJCEP), Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP)...
Nhiều công ty, tập đoàn lớn của Nhật Bản, đã thiết lập cơ sở sản xuất, nhà máy chế tạo và lắp ráp tại Việt Nam, tận dụng được các lợi thế chi phí và các cơ hội phối hợp với doanh nghiệp cung ứng nguyên liệu, sản phẩm công nghiệp hỗ trợ của Việt Nam tạo ra lợi ích về doanh thu cho cả hai bên.
Năm 2019, Nhật Bản là đối tác thương mại lớn thứ 4 (sau Trung Quốc, Hoa Kỳ, Hàn Quốc). Kim ngạch xuất nhập khẩu song phương trong 10 năm trở lại đây có sự tăng trưởng khá ổn định. Nhìn chung cán cân thương mại Việt – Nhật trong 10 năm qua tương đối cân bằng, với sự chênh lệch giữa xuất khẩu và nhập khẩu hàng năm ở mức không quá lớn. Về đầu tư, Nhật Bản xếp thứ 4 trong số các quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư tại Việt Nam, với tổng vốn đăng ký 4,14 tỷ USD.
Thu Ngân