Vi rút cúm A/H7N9 thuộc nhóm ARN-virus, họ Orthomyxoviridae, giống Infl uenzavirus A, có chứa kháng nguyên bề mặt haemaglutinin 7 (H7) và kháng nguyên neuraminidase 9 (N9), có khả năng gây ra bệnh dịch cúm ở các loài lông vũ (avian infl uenza). Theo CDC-Hoa Kỳ thì chủng vi rút A/H7N9 là kết quả của sự tái tổ hợp của genom từ 3 chủng vi rút cúm đang lưu hành là vi rút cúm vịt nhà (A/H7N3), vi rút cúm chim hoang dã (A/H7N9) và vi rút cúm gà (A/H9N2).

{keywords}
Nghiên cứu vi rút cúm gia cầm trong phòng thí nghiệm. Ảnh minh họa: Xuân An

Giống như các loại Vi rút cúm khác, chủng cúm A/ H7N9 có thể xâm nhiễm vào nhiều loại động vật khác nhau như gà, thủy cầm, chim hoang dại, một số loài động vật có vú như lợn, ngựa…. vi rút được chứng minh có khả năng tồn tại, phát triển trong thịt, trứng của các loài gia cầm, thủy cầm chưa nấu chín và các loại chất thải, nhất là chất thải lỏng. Chúng mẫn cảm với các hóa chất sát khuẩn như dung dịch natri hypochlorit 1%, cồn 700, glutaraldehyde, formalin và iot. Chúng dễ bị bất hoạt bởi nhiệt độ 56 - 600C trong 60 phút và có khả năng sinh tồn ở nước ao hồ nhiệt độ 220 C chừng 4 tuần, còn ở 00C chúng có thể tồn tại trong vòng 30 ngày sau. Vi rút cũng có thể tồn tại trong máu và tử thi người bệnh ở nhiệt độ lạnh khoảng 3 tuần lễ.

Vi rút cúm A/ H7N9 có khả năng nhân lên trong các cơ quan hô hấp, tiêu hóa, tiết niệu của loài chim và gia cầm, sinh sản ở đó và có mặt trong chất tiết của các cơ quan trên. Chủng A/H7N9 gây nhiễm cho gia cầm là chính và có khả năng lây nhiễm và gây bệnh cho người. Độc lực của Vi rút cúm A/H7N9 thể hiện trên gia cầm thường yếu hoặc hầu như không có, tuy nhiên trên người độc lực lại thể hiện rõ ràng ở 4 mức độ là loại cao (highly virulent/pathogen), loại vừa và nhẹ (moderately and mildly virulent) và loại không có độc lực (avirulent) thường là nhiễm vi rút không có triệu chứng và không gây tử vong. Kháng nguyên vi rút có thể phát hiện bằng phản ứng PR-PCR từ dịch họng hay dịch đường hô hấp dưới trong khi kháng thể đặc hiệu ở máu có thể sử dụng kỹ thuật ELISA.

Nguồn truyền nhiễm chính của cúm A/ H7N9 được xác định là loài gia cầm sống gần người. Tuy nhiên cũng có những bằng chứng về ổ chứa tự nhiên của loài vi rút này là một số loài chim hoang dã di trú và loài thủy cầm. Bệnh lây từ động vật sang người do sự tiếp xúc và sử dụng sản phẩm gia cầm nhiễm vi rút cúm.

Cụ thể vi rút A/H7N9 lây truyền trực tiếp do người ăn thịt, phủ tạng, trứng của gà nhiễm; có thể lây gián tiếp qua không khí hay khi sử dụng thức ăn, nước, dụng cụ vận chuyển, dụng cụ giết mổ, chế biến thực phẩm và quần áo đã ô nhiễm vi rút từ dịch hô hấp, phân của gà bị nhiễm. Bàn tay ô nhiễm là một yếu tố làm lây nhiễm quan trọng. Tuy nhiên cũng có một số trường hợp người nhiễm vi rút không hề có tiền sử tiếp xúc với gia cầm, đặt ra giả thuyết về khả năng vi rút lây nhiễm từ người sang người. Đại diện Tổ chức Y tế thế giới (WHO) ở Trung Quốc hôm 20 -1 đưa ra nhận định virút cúm gia cầm H7N9 có thể lây từ người sang người trong một số trường hợp nhất định ở Trung Quốc. Tuy điều này chưa được chính thức xác nhận nhưng tại Trung Quốc các nhân viên y tế cũng như người chăm sóc bệnh nhân cúm A/H7N9 đều phải dùng trang bị bảo hộ cá nhân tối đa khi tiếp xúc trực tiếp với bệnh nhân.

Vi rút cúm A/ H7N9 trên thực tế không hoặc rất ít khi gây ra bệnh lý rõ ràng trên gà và thủy cầm. Đây là điểm khác biệt của chủng vi rút này với vi rút cúm A/H5N1 xuất hiện tại Hồng Công từ năm 1997 tới nay. Chủng A/H5N1 được mệnh danh là “sát thủ số 1” của loài gà với tỷ lệ gà chết khi nhiễm thường lên tới 100% đàn trong những năm đầu xuất hiện dịch. Do ít có biểu hiện lâm sàng trên đàn gà nhiễm cúm A/H7N9 nên cơ hội phát hiện, cách ly, xử lý chúng rất thấp và đấy chính là nguyên nhân làm tăng khả năng tiếp xúc, dẫn tới tỷ lệ lây nhiễm cúm A/H7N9 sang người có phần cao hơn sự lây nhiễm của chủng A/H5N1.

Khi xâm nhập vào người chủng cúm A/H7N9 gây bệnh cảnh rất rầm rộ, nặng nề, thường có sốt cao đột ngột và liên tục (trên 38,50C), đau đầu và kèm theo đau nhức các cơ, ho khan, đau rát họng (các triệu chứng này rất dễ nhầm với bệnh viêm họng cấp). Viêm phổi không điển hình đi cùng đau tức ngực dữ dội, kèm theo khó thở, hình ảnh Xquang phổi mờ không đồng đều, lan nhanh. Ngoài ra, người bệnh cũng có thể bị viêm kết mạc, rối loạn tiêu hóa như tiêu chảy, nôn, buồn nôn, đau bụng lan tỏa. Có thể xuất hiện nước tiểu vàng, men gan tăng cao do ảnh hưởng chức năng gan, thận. Nếu bệnh tiến triển nặng sẽ xuất hiện tím tái do suy hô hấp nặng, mệt mỏi nhiều và bắt đầu rối loạn ý thức. Không được phát hiện sớm và chữa trị tích cực, kịp thời thì khả năng tử vong do nhiễm cúm A/H7N9 rất cao.

Minh Thu