- Em hiện đang là lái xe cho một hãng xe khách lớn. Cách đây một tuần, trên tuyến đường chở khách, xe ô tô em điều khiển có va chạm với một xe máy làm người đi xe máy chết. Hai xe đều đi cùng chiều nhưng chiếc xe máy đó lấn sang phần đường đi ô tô, người lái xe đó không đội mũ bảo hiểm, được xác định có nồng độ cồn không cho phép trong người. Phía nhà xe bên em đã nói rõ ràng em không có lỗi, lỗi từ phía người đi xe máy kia, tuy nhiên vẫn sẵn sàng hỗ trợ một phần cho gia đình người tai nạn. Nhưng phía gia đình người kia nhất định không chịu, đòi kiện ra tòa án. Luật sư cho hỏi như vậy nếu bị kiện thì em có bị truy cứu trách nhiệm gì không? Nếu họ nhất định làm như vậy phía bên nhà xe không hỗ trợ nữa có được không? Em chắc chắn trong trường hợp này em đã điều khiển xe đúng theo quy định của pháp luật.

TIN BÀI KHÁC

{keywords}
Lỗi từ phía người bị tai nạn chết nhưng gia đình họ vẫn bắt em bồi thường? (Ảnh minh họa)

Nội dung bạn đọc Nguyen Van Thanh hỏi, Luật sư Phạm Thị  Bích Hảo, Công ty luật TNHH Đức An, Thanh Xuân, Hà Nội trả lời:

Thứ nhất: Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ.

Khoản 1 điều 202 Bộ luật hình sự 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009 quy định:

Điều 202. Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ

“1. Người nào điều khiển phương tiện giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ, tài sản của người khác, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến năm năm.” 

Theo quy định trên, bạn chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội vi phạm quy định về điều khiển giao thông đường bộ khi bạn có hành vi điều khiển phương tiện giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại tính mạng cho người khác. Nếu như bạn hoàn toàn không có lỗi trong vụ tai nạn trên thì bạn sẽ không bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, việc bạn có lỗi hay không có lỗi phải chờ kết luận của cơ quan điều tra, xem bạn có lỗi hay không, nếu có lỗi là lỗi gì, mức độ lỗi thế nào? 

Thứ hai: Về việc bồi thường thiệt hại.

Khoản 1 điều 623 Bộ luật dân sự 2005 quy định: “Nguồn nguy hiểm cao độ bao gồm phương tiện giao thông vận tải cơ giới, hệ thống tải điện, nhà máy công nghiệp đang hoạt động, vũ khí, chất nổ, chất cháy, chất độc, chất phóng xạ, thú dữ và các nguồn nguy hiểm cao độ khác do pháp luật quy định.”. Và khoản 18 Điều 3 Luật giao thông đường bộ 2008 quy định: “ Phương tiện giao thông cơ giới đường bộ (sau đây gọi là xe cơ giới) gồm xe ô tô; máy kéo; rơ moóc hoặc sơ mi rơ moóc được kéo bởi xe ô tô, máy kéo; xe mô tô hai bánh; xe mô tô ba bánh; xe gắn máy (kể cả xe máy điện) và các loại xe tương tự. Như vậy, theo hai quy định trên thì ô tô cũng là một nguồn nguy hiểm cao độ. Vì vậy theo quy định tại Khoản 3 Điều 623 Bộ luật dân sự 2005 quy định: “ Chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại cả khi không có lỗi, trừ các trường hợp sau đây: 

a) Thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi cố ý của người bị thiệt hại; 

b) Thiệt hại xảy ra trong trường hợp bất khả kháng hoặc tình thế cấp thiết, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.” Thì trường hợp này người chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu nguồn nguy hiểm cao độ vẫn có trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngay cả khi người đó không có lỗi.

Cụ thể về trách nhiệm bồi thường như sau:

Theo hướng dẫn tại mục III Nghị quyết 03/2006 của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao, chủ sở hữu xe cơ giới là người trước tiên có trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xe cơ giới gây ra. Người thứ hai có trách nhiệm bồi thường là người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng hợp pháp xe cơ giới, cả khi người này không có lỗi.

Và trong mục III nghị quyết 03/2006/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao hướng dẫn:

Ví dụ: A là chủ sở hữu xe ô tô đã giao xe ô tô đó cho B. B lái xe ô tô tham gia giao thông đã gây tai nạn và gây thiệt hại thì cần phải phân biệt:

- Nếu B chỉ được A thuê lái xe ô tô và được trả tiền công, có nghĩa B không phải là người chiếm hữu, sử dụng xe ô tô đó mà A vẫn chiếm hữu, sử dụng; do đó, A phải bồi thường thiệt hại.

- Nếu B được A giao xe ô tô thông qua hợp đồng thuê tài sản, có nghĩa A không còn chiếm hữu, sử dụng xe ô tô đó mà B là người chiếm hữu, sử dụng hợp pháp; do đó, B phải bồi thường thiệt hại. Nếu trong trường hợp này được sự đồng ý của A, B giao xe ô tô cho C thông qua hợp đồng cho thuê lại tài sản, thì C là người chiếm hữu, sử dụng hợp pháp xe ô tô đó; do đó, C phải bồi thường thiệt hại.

Trong trường hợp này của bạn, bạn là người được thuê để lái xe và không phải chủ sở hữu nên công ty bạn sẽ có trách nhiệm bồi thường. Sau khi công ty bồi thường có quyền yêu cầu người làm công, người học nghề có lỗi trong việc gây thiệt hại phải hoàn trả một khoản tiền theo quy định pháp luật.

Bạn đọc muốn gửi các câu hỏi thắc mắc về các vấn đề pháp luật, xin gửi về địa chỉ banbandoc@vietnamnet.vn (Xin ghi rõ địa chỉ, số điện thoại để chúng tôi tiện liên hệ)

Ban Bạn đọc