Khai thác giá trị kinh tế của văn hóa để văn hóa trở thành nguồn lực cho sự phát triển đất nước là chủ trương xuyên suốt của Đảng qua nhiều kỳ đại hội. Đặc biệt, trong Văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng nhấn mạnh: “Khẩn trương triển khai phát triển có trọng tâm, trọng điểm ngành công nghiệp văn hóa và dịch vụ văn hóa trên cơ sở xác định và phát huy sức mạnh mềm của văn hóa Việt Nam, vận dụng có hiệu quả các giá trị, tinh hoa và thành tựu mới của văn hóa, khoa học, kỹ thuật, công nghệ của thế giới”.

{keywords}
Trong những năm qua, phong trào “xã đạt chuẩn văn hóa nông thôn mới” lan tỏa khắp các vùng miền.

Trong bối cảnh đất nước đang tiếp tục đổi mới, tăng cường hội nhập quốc tế, tiến hành sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển các ngành công nghiệp văn hóa là một trong những bước đi đột phá để biến những khát vọng của đất nước thành hiện thực. Nó chính là công cụ hiệu quả để biến văn hóa thành động lực phát triển kinh tế - xã hội, thúc đẩy nền kinh tế cạnh tranh, đa dạng và hiệu quả hơn, tiếp tục tái khẳng định Việt Nam như một xã hội đổi mới và tiến bộ.

Phát triển các ngành công nghiệp văn hóa cũng là hướng đi và động lực tích cực để cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng, cũng là công cụ cần nắm lấy để bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa.

Trong một bài phân tích có tựa đề Phát triển các ngành công nghiệp văn hóa trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế ở Việt Nam, đăng trên tờ TCCS, TS Phùng Quốc Hiển cho rằng, để công nghiệp văn hóa phát triển trong cơ chế thị trường đúng định hướng xã hội chủ nghĩa, cần có một số giải pháp cụ thể như sau:      

Một là, Đảng Cộng sản Việt Nam với vai trò là lực lượng lãnh đạo xã hội, cần tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo trên mặt trận tư tưởng, văn hóa, nhất là đối với các ngành công nghiệp văn hóa, không thể coi sự phát triển của nó bình thường như mọi ngành kinh tế khác. Cần có nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị để cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng một cách toàn diện, có hệ thống các quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng đối với sự phát triển của công nghiệp văn hóa trong giai đoạn mới. Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng trong lĩnh vực văn hóa nói chung và công nghiệp văn hóa nói riêng.

Hai là, bên cạnh cơ chế thị trường, với vai trò của “bà đỡ” và người quản lý, Nhà nước cần vào cuộc mạnh mẽ hơn nữa, tránh tình trạng “nắm chặt”, “buông lỏng”, hoặc “đánh đồng như nhau” trong các chính sách với các ngành, không phân biệt khi ban hành chính sách. Nên có quy hoạch, kế hoạch và chương trình đầu tư hỗ trợ cho những lĩnh vực mà các thành phần kinh tế khác không tham gia hoặc không đủ sức tham gia. Duy trì độc quyền nhà nước đối với một số lĩnh vực quan trọng, thiết yếu trong công nghiệp văn hóa. Chính sách cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước trong lĩnh vực văn hóa cần hết sức thận trọng. Việc cổ phần hóa Hãng Phim truyện Việt Nam là một kinh nghiệm cho ngành điện ảnh Việt Nam. Thúc đẩy mô hình hợp tác công - tư trong quá trình phát triển các ngành công nghiệp văn hóa. Thực hiện các chính sách về đất đai, thuế, giá, Nhà nước đặt hàng... để khuyến khích công nghiệp văn hóa phát triển.

Hỗ trợ đào tạo nhân tài trên một số ngành, lĩnh vực còn yếu và thiếu, mà tư nhân và các thành phần kinh tế khác không tham gia, đi đôi với đó là có chính sách ưu đãi nhân tài. Cần đổi mới cách hiểu, nhân tài là người có phát minh, có nguyên tác, có sáng kiến, có ý tưởng, có đóng góp đem lại hiệu quả cao trên từng lĩnh vực. Phải dựa trên hiệu quả công việc, chứ không chỉ dựa trên bằng cấp, tuổi tác, thâm niên làm việc, đồng thời chính sách ưu đãi không phải là vĩnh viễn, mà có thời hạn phù hợp với hiệu quả đóng góp. Giải pháp hàng đầu mang tính lâu dài và quan trọng nhất là cần thực sự đổi mới căn bản và toàn diện hệ thống giáo dục và đào tạo, tập trung theo ba nhóm phổ thông, nhân lực và nhân tài, theo hướng rút ngắn thời gian và cung cấp những kiến thức phổ thông cho công dân, phân luồng mạnh để đào tạo nguồn nhân lực và nguồn nhân lực chất lượng cao, ở cấp độ cao tập trung bồi dưỡng nhân tài. Đây là nguồn tài nguyên quan trọng cho nền kinh tế nói chung và công nghiệp văn hóa nói riêng. Đó cũng là kế sách chấn hưng đất nước về văn hóa.

Ba là, để các ngành công nghiệp văn hóa phát triển, rất cần hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, mà trước hết là tạo địa vị pháp lý cho các ngành công nghiệp văn hóa. Thực tế vẫn còn khoảng cách giữa luật pháp và thực tiễn cuộc sống, nhiều khoảng trống pháp lý chưa được pháp luật điều chỉnh, nhất là trong bối cảnh thực hiện chuyển đổi số. Một số ngành công nghiệp văn hóa đã xuất hiện khái niệm, cách làm hoàn toàn mới dựa trên nền tảng công nghệ số, trí tuệ nhân tạo (AI), điện toán đám mây (eCloud) và dữ liệu lớn (Big Data). Do vậy, trên cơ sở chủ trương, đường lối của Đảng, Quốc hội và Chính phủ cần rà soát, xây dựng, hoàn thiện và bổ sung hệ thống pháp luật có liên quan, tạo môi trường pháp lý cho các ngành công nghiệp văn hóa phát triển, đồng thời bảo đảm an ninh văn hóa, nhất là khi chúng ta đã mở cửa gần như hoàn toàn nhiều lĩnh vực văn hóa cho các tổ chức, cá nhân nước ngoài tham gia thị trường, đa phần trên không gian mạng.
Hỗ trợ đào tạo nhân tài trên một số ngành, lĩnh vực văn hóa trọng điểm có vai trò quan trọng trong phát triển ngành công nghiệp văn hóa của Việt Nam.

Bốn là, tiếp tục động viên, khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư, phát triển công nghiệp văn hóa đối với ngành, lĩnh vực pháp luật không cấm hoặc kinh doanh có điều kiện. Bảo đảm quy hoạch và kế hoạch phát triển trong từng thời kỳ. Định hướng, tuyên truyền và vận động các tầng lớp nhân dân nâng cao nhu cầu hưởng thụ văn hóa lành mạnh, tinh hoa của nhân loại, truyền thống văn hóa dân tộc. Bài trừ văn hóa lai căng, độc hại, đi ngược với thuần phong, mỹ tục của dân tộc và văn hóa nhân loại. Kết nối tốt hơn nữa giữa cung và cầu, giữa doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh, với các nhân tài là các nhà khoa học, nhà văn hóa, văn nghệ sĩ, nghệ nhân và người hưởng thụ văn hóa là các tầng lớp nhân dân trong phát triển công nghiệp văn hóa.

Năm là, tăng cường hợp tác quốc tế về văn hóa, tiếp thu có chọn lọc văn hóa nước ngoài cũng như quảng bá văn hóa Việt Nam ra trường quốc tế, nhất là các sản phẩm văn hóa mà Việt Nam có thế mạnh, được bạn bè quốc tế đánh giá cao. Nhà nước cần hỗ trợ học bổng cho sinh viên, những nhân tài của Việt Nam đi học tập, tu nghiệp, huấn luyện nâng cao ở nước ngoài đối với một số lĩnh vực nghệ thuật, thiết kế, kiến trúc... mà chúng ta đang thiếu, yếu trong ngành công nghiệp văn hóa nhưng các thành phần kinh tế khác không tham gia, nhằm tạo lực lượng nòng cốt để trở về đào tạo cho nguồn nhân lực trong nước, đáp ứng yêu cầu phát triển của công nghiệp văn hóa.

Với những lợi thế, tiềm năng sẵn có, cùng với những chính sách đúng đắn, chúng ta hoàn toàn tin tưởng, đến năm 2045, công nghiệp văn hóa sẽ là ngành kinh tế phát triển mạnh mẽ và có hiệu quả, đem lại ít nhất 10% GDP cho Việt Nam như kỳ vọng.

Hồ Lợi