Năm 2023, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đã chính thức đưa vắc xin chống thoa trùng sốt rét vào sử dụng cho người để phòng sốt rét.
Cách đây gần 60 năm, Giáo sư Đặng Văn Ngữ đã có hướng đi đúng đắn và độc đáo trong việc sử dụng tuyến nước bọt muỗi có thoa trùng tự nhiên để làm vắc xin ngăn chặn giai đoạn thoa trùng từ muỗi xâm nhập vào cơ thể người lành, phòng sốt rét. Ông đã hy sinh trong một lần tổ chức đoàn nghiên cứu sốt rét vào chiến trường Trị Thiên Huế ngày 1/4/1967, sau một loạt bom B52 rải thảm.
Những năm gần đây, cùng với hướng nghiên cứu của giáo sư trước kia, những công trình của các nhà khoa học quốc tế đã viết tiếp ước mơ còn dang dở của Giáo sư Đặng Văn Ngữ: Công bố các kết quả nghiên cứu về vắc xin thoa trùng sốt rét.
Bác sĩ Trần Thị Lịch là học trò và một trong những thành viên đoàn nghiên cứu vắc xin sốt rét cùng Giáo sư Đặng Văn Ngữ làm việc tại Vĩnh Linh, chiến trường B - Trị Thiên Huế.
Dưới đây là chia sẻ của bác sĩ Trần Thị Lịch về quá trình nghiên cứu thoa trùng sốt rét thực địa Vĩnh Linh 1966, do Giáo sư Đặng Văn Ngữ trực tiếp chỉ đạo. Kết quả của đợt nghiên cứu này đã đưa đến quyết định của Giáo sư vào chiến trường Trị Thiên Huế để ứng dụng vắc xin thoa trùng sốt rét tự nhiên:
Đã gần 60 năm trôi qua, tôi vẫn nhớ các bước chuẩn bị và triển khai nghiên cứu được thầy chỉ bảo rất chu đáo như sau:
Chuẩn bị và trao đổi ý tưởng khoa học
Cuối tháng 4/1966, đoàn nghiên cứu sốt rét được thành lập bao gồm Giáo sư Đặng Văn Ngữ, các bác sĩ Nguyễn Thị Hợi, Trần Thị Lịch và Nguyễn Văn Sản. Trước ngày khởi hành, Giáo sư Ngữ đã có buổi trao đổi về bệnh sốt rét, tổn thất do bệnh gây ra. Nhiều người mắc sốt rét ác tính hy sinh ảnh hưởng trầm trọng đến sức chiến đấu của quân đội.
Bên cạnh đó, đoàn được trao đổi về tầm quan trọng, yêu cầu, mục đích của chuyến nghiên cứu, các kiến thức về chống sốt rét và về vắc xin thoa trùng sốt rét. Qua đó, chúng tôi hiểu được tầm quan trọng của chuyến đi thực địa, những điều cần làm để có kết quả tốt nhất.
Giáo sư đã đề cập đến kinh nghiệm chống sốt rét thành công tại các tỉnh phía Bắc không áp dụng được với tình hình bệnh sốt rét của bộ đội Trường Sơn. Sốt rét tại các tỉnh phía Bắc do muỗi An. minimus tiêu máu trong nhà truyền bệnh có thể bị diệt bởi DDT phun 2m trở xuống mặt trong tường vách.
Bệnh sốt rét Trường Sơn do muỗi An. balabacensis (sau này định danh là A. dirus) tiêu máu ngoài trời truyền bệnh. Mọi hoạt động, chiến đấu của bộ đội gắn liền với núi rừng Trường Sơn, ngủ nghỉ bằng võng mắc trong rừng, trong hầm và luôn phải di chuyển nhiều nơi. Do đó, cần phải có biện pháp hữu hiệu phù hợp nhất phòng chống sốt rét Trường Sơn bằng vắc xin thoa trùng sốt rét thiên nhiên tại các vùng dịch lưu hành.
Xây dựng quy trình thực hiện mục tiêu, yêu cầu nghiên cứu thực địa
- Bắt muỗi, định loại và mổ lấy tuyến nước bọt tìm thoa trùng để có nhận xét tại điểm sốt rét lưu hành nặng có thể bắt được nhiều muỗi không.
- Điều chế vắc xin từ tuyến nước bọt có thoa trùng, để có nhận xét vắc xin điều chế từ tuyến nước bọt muỗi nhiễm thoa trùng thiên nhiên dùng cho người có an toàn không.
- Theo dõi kết quả tiêm thông qua xét nghiệm máu của một số người được tiêm vắc xin và một số người không được tiêm vắc xin cùng sinh hoạt tại điểm sốt rét này để đưa ra nhận xét vắc xin thoa trùng trong tuyến nước bọt muỗi thiên nhiên có hiệu quả không.
Phân công nhiệm vụ
- Nguyễn Thị Hợi: Chịu trách nhiệm khám, điều trị và theo dõi bệnh nhân sốt rét; xét nghiệm máu hằng ngày và theo dõi đánh giá tình hình, tham gia bắt muỗi vào buổi tối.
- Trần Thị Lịch: Bắt muỗi, mổ muỗi tìm thoa trùng.
- Nguyễn Văn Sản: Bắt muỗi và tham gia công tác điều trị cùng Nguyễn Thị Hợi.
- Dương Văn Đắc: Bắt muỗi.
Triển khai kế hoạch nghiên cứu tại Vĩnh Linh
- Chọn địa điểm nghiên cứu
Đoàn đi trên chiếc xe U-oát do anh Dương Văn Đắc lái 7 ngày từ Hà Nội vào Vĩnh Linh. Đường xá, cầu phà bị máy bay địch đánh phá hư hỏng rất nặng. Xe chỉ chạy được vào ban đêm, ban ngày thì tìm nơi trú ẩn. Tới Vĩnh Linh, máy bay địch đánh phá khốc liệt hơn nhiều, vì đây là vùng giới tuyến địch ngăn chặn không cho ta vận chuyển hàng hóa và người vào tiếp viện cho chiến trường miền Nam.
Giáo sư Ngữ chọn địa điểm nghiên cứu là Quân y viện 43, đóng trong rừng Trường Sơn thuộc xã Vĩnh Khê, khu Vĩnh Linh, có nhiệm vụ điều trị cho bộ đội từ miền Nam ra. Bệnh nhân ở đây nằm điều trị tại các lán được làm bằng gỗ rừng, mái lợp bằng lá tranh, xung quanh vách lán nứa và được che kín bằng lá “đùng đình” để ánh sáng không lọt ra bên ngoài, tránh máy bay địch phát hiện. Mỗi lán có 6-8 bệnh nhân, các lán cách nhau từ 50-80m.
- Bắt muỗi và mổ muỗi
Người bắt muỗi thường ngồi cách lán bệnh nhân 2-4m, mỗi lán có một người ngồi bắt và thời gian bắt từ 18-20h. Người bắt muỗi sẽ xắn quần cao qua đầu gối để làm mồi, khi muỗi đậu dùng đèn pin soi, lấy ống nghiệm to nhẹ nhàng chụp bắt muỗi. Bắt muỗi luân phiên hôm nay lán này, hôm sau lán khác, mấy ngày sau quay trở lại.
Giáo sư cũng tham gia bắt muỗi, ngày nào cũng ngồi 1 lán để bắt. Chúng tôi đề nghị thầy không đi bắt muỗi tối, công việc này để chúng tôi lo. Nhưng thầy không nghe và nói có nhiều người bắt thì sẽ nhiều muỗi, số muỗi bắt được phụ thuộc vào thời tiết mỗi ngày, khoảng trên 10 con, có ngày không bắt được con nào.
Tôi được phân công mổ muỗi và soi tuyến nước bọt tìm thoa trùng. Tôi đã thực hiện công việc mổ muỗi nhiều lần, còn soi tuyến nước bọt thì chưa bao giờ gặp thoa trùng. Thầy đã dành nhiều thời gian để tham gia thực hiện phần việc này. Ngày đầu làm nhiệm vụ, thầy đã quan sát tôi thực hiện quy trình kỹ thuật mổ muỗi lấy tuyến nước bọt rất kỹ lưỡng. Tôi hồi hộp đợi ý kiến từ Giáo sư, nhưng không có phản hồi.
Muỗi bắt về chủ yếu là An. balabacensis, sau đó được phân loại rồi gây mê từng con bằng ete. Tiến hành mổ muỗi trên kính lúp hai mắt để bàn. Muỗi đã gây mê được đặt lên một giọt nước muối sinh lý 9% trên lam kính đầu tiên, được cắt cánh và chân. Sau đó, muỗi được chuyển sang giọt nước muối sinh lý trên lam kính thứ 2. Ở đây, muỗi bị tách đầu kéo theo tuyến nước bọt. Việc tách lấy 6 tuyến nước bọt ra đòi hỏi sự khéo léo và tập trung cao độ. Sau đó, tuyến nước bọt được tách ra khỏi đầu, chuyển sang giọt nước muối trên lam kính thứ 3 rồi chuyển sang kính hiển vi để Giáo sư soi tìm thoa trùng.
Sau khi xem lam kính tuyến nước bọt tìm thoa trùng, thầy chuyển cho tôi xem và dặn dò tôi rằng khi soi cần phải tập trung, quan sát kỹ để thấy được tất cả đặc điểm của các tuyến nước bọt.
Một hôm, Giáo sư có yêu cầu tôi xem một bộ tuyến nước bọt và chú ý xem có điều gì khác lạ không. Tôi quan sát kỹ lưỡng và nhận thấy bộ tuyến nước bọt này khác với các bộ tôi đã xem: kích thước tuyến hơi căng đều hơn, nhìn kỹ thấy các khoang tuyến có nhiều hình thoi màu trắng trong xếp đều, phần tuyến bị rách có hiện tượng sóng động đậy rất nhẹ. Tôi rất vui mừng vì đây là lần đầu tiên tôi nhìn thấy thoa trùng trên tuyến nước bọt muỗi.
- Điều chế vắc xin và thử tiêm trên người
Tất cả các bộ tuyến nước bọt muỗi có thoa trùng đều được giữ lại để điều chế vắc xin. Mỗi bộ tuyến nước bọt được cho vào 0,5ml phenol 1%. Muỗi bắt được chủ yếu là An. balabacensis.
Số tuyến nước bọt có thoa trùng được lưu giữ lại đóng trong lọ dung dịch phenol 1%. Mỗi liều tiêm cho người là 0,5 ml vắc xin/người.
Lần tiêm vắc xin đầu tiên, Giáo sư nhất quyết yêu cầu được tiêm trước rồi mới đến người khác. Chúng tôi hồi hộp, lo lắng chứng kiến Giáo sư nhận mũi tiêm vắc xin thử nghiệm đầu tiên. Quân Y viện 43 chuẩn bị đầy đủ các phương tiện cấp cứu đề phòng sự cố xảy ra. Sau đó, các thành viên trong đoàn nghiên cứu lần lượt tiêm vắc xin thử nghiệm.
Sau một thời gian, khi có đủ vắc xin tiêm cho 10 người, chúng tôi lựa chọn ra 20 nhân viên của Quân Y viện 43 có điều kiện sinh hoạt đời sống như nhau. 10 người được tiêm vắc xin sốt rét, và 10 người không tiêm để đối chứng. Trước khi tiêm, 20 người được chọn đã được kiểm tra sức khỏe, xét nghiệm máu và có kết quả âm tính với ký sinh trùng sốt rét. Sau khi tiêm, cứ 2 tuần/lần, những người tham gia được xét nghiệm máu tìm ký sinh trùng sốt rét.
- Theo dõi và đánh giá kết quả vắc xin
Sau một tháng theo dõi, 10 người được tiêm vắc xin đều không bị sốt, trong xét nghiệm máu không có ký sinh trùng sốt rét. Trong 10 người không tiêm vắc xin có 2 người bị sốt và xét nghiệm máu có ký sinh trùng sốt rét.
Tháng tiếp theo, những người tiêm vắc xin an toàn trong khi nhóm không tiêm có một người bị sốt, xét nghiệm máu có ký sinh trùng sốt rét. Kết quả tương tự ở tháng thứ 3.
5 người trong đoàn nghiên cứu đều không bị sốt, xét nghiệm máu không có ký sinh trùng sốt rét.
Bác sĩ Hợi chịu trách nhiệm xét nghiệm máu hằng ngày để đánh giá tình hình bệnh nhân sốt rét, số lượng ký sinh trùng trong hồng cầu, điều trị bệnh nhân sốt rét; theo dõi những bệnh nhân có ký sinh trùng sốt rét kháng thuốc, điều trị sốt rét kháng thuốc và xét nghiệm máu của những người được tiêm vắc xin cùng nhóm đối chứng.
Đánh giá kết quả đợt nghiên cứu vắc xin sốt rét thoa trùng thực địa Vĩnh Linh
- Bắt được số muỗi truyền sốt rét An. balabacensis không ít, song chưa xác định được cách bắt tối ưu để có được số lượng nhiều
- Tỷ lệ muỗi mang thoa trùng sốt rét tương đối cao, đã quy chuẩn được cách mổ muỗi lấy tuyến nước bọt làm vắc xin, đã tiêm thử vắc xin này cho người an toàn
- Theo dõi 15 người được tiêm vắc xin, có đối chứng thấy sau nhiều tháng những người được tiêm vắc xin không nhiễm sốt rét. Những người đối chứng không được tiêm vắc xin có 4 người mắc sốt rét. Tất cả những người này cùng ở vùng sốt rét lưu hành nặng như nhau.
Tóm tắt kết quả của đợt nghiên cứu
Kết quả nghiên cứu vắc xin sốt rét thoa trùng thực địa tại Vĩnh Linh đã có kết quả, qua đó Giáo sư Đặng Văn Ngữ có niềm tin vào vắc xin sốt rét thoa trùng lấy từ tuyến nước bọt muỗi nhiễm tự nhiên có khả năng phòng sốt rét. Việc này đã thôi thúc Giáo sư nhanh chóng lên đường vào chính trường miền Nam Trị Thiên Huế, tiếp tục nghiên cứu, sản xuất vắc xin sốt rét thoa trùng tại chỗ để tiêm cho bộ đội đang chiến đấu gắn với núi rừng Trường Sơn.
Sau chuyến đi thực địa, khi về Hà Nội vào cuối tháng 9/1966, thầy đã ngay lập tức có ý kiến đề nghị Bộ Y tế, Thủ tướng Chính phủ xin được vào chiến trường Trị Thiên Huế để tiếp tục công việc nghiên cứu và sản xuất vắc xin thoa trùng sốt rét cho bộ đội và nhân dân vùng sốt rét.
Dù nhiều lần đề nghị nhưng không được chấp thuận, Giáo sư vẫn kiên trì thuyết phục bằng lòng quyết tâm, sự nhiệt huyết, khát khao mong muốn được góp sức vào công cuộc giải phóng đất nước. Cuối cùng nguyện vọng của thầy Ngữ đã được chấp nhận. Thầy khẩn trương thành lập đoàn đi trong sự phấn khởi và vui mừng.
Đoàn gồm có 12 người, 7 nam và 5 nữ, cùng Giáo sư vào chiến trường để làm việc. Giáo sư quan tâm, giúp đỡ, giải quyết những khó khăn vướng mắc cho các thành viên đoàn. Ông còn tổ chức phát động phong trào mọi người trong viện làm đơn xung phong xin vào chiến trường công tác, tạo nên khí thế hăng hái toàn viện.
Chỉ còn 3 tháng để chuẩn bị và tập luyện sức khỏe cho chuyến đi hành quân gian nan vất vả với 30kg đeo nặng trên vai, sự hăng say và lòng nhiệt huyết của Giáo sư đã truyền động lực và cảm hứng cho chúng tôi.
Tôi còn nhớ, hôm được gọi lên gặp Giáo sư, qua những lời hỏi ban đầu, ông nói: “Kỳ này cô vào chiến trường tiếp tục công việc mổ muỗi làm vắc xin. Công việc cần cô. Tôi sẽ cho người đón 2 con cô sơ tán ở Ninh Bình lên”. Sự quan tâm của Giáo sư đã làm tôi bất ngờ và rất cảm động, trong lòng thầm cảm ơn thầy.
Bác sĩ Trần Thị Lịch