Năm 1975, Liên Xô sản xuất được 490 triệu tấn dầu thô và vượt Hoa Kỳ vốn là một trong những nước sản xuất dầu lớn nhất thế giới thời đó.

>> Cuộc chiến giá dầu: Ông lớn nào trọng thương?

>> Yếu tố nhạy cảm của nước Nga

>> Vũ khí dầu mỏ của Nga, vũ khí bí mật của Mỹ

Sự định hình bản đồ dầu mỏ

Vùng Trung Đông của thế giới luôn luôn là điểm nóng trong lịch sử loài người hiện đại từ đầu thế kỷ 20, chủ yếu là gắn liền với các quốc gia về nguồn năng lượng hóa thạch dầu mỏ và khí đốt. Ở khu vực này có thể “điểm mặt” người Anh, người Pháp, người Đức (hay phe Trục trong Chiến tranh thế giới thứ hai), Hoa Kỳ và từ sau Chiến tranh, còn có cả người Nga (Liên Xô.)

Có thể nói, thế kỷ 20 là thời gian thành lập nhiều quốc gia trong khu vực Trung Đông, của thế giới Arab… vốn là những vùng ốc đảo có các quốc vương cai trị và ngăn cách nhau bằng những vùng sa mạc rộng lớn. Chỉ khi tiềm năng dầu mỏ được phát hiện người ta mới quan tâm đến “vàng đen” đằng sau những cồn cát. Nếu như trước đó hầu hết những cuộc chiến tranh trong khu vực là để giành nguồn nước, hay xung đột tôn giáo, thì nay đã thêm một mục tiêu mới, các giếng dầu.

Người Anh, can thiệp vào tình hình của nhiều nước nhất trong khu vực Trung Đông và thế giới Arab, như Ai cập, Iran, Iraq, Transjordanie… vốn dĩ trước đây nước Anh có quyền bảo hộ với nhiều vùng lãnh thổ từ cuối thế kỷ 19, thì đến giữa thế kỷ 20 đã dần lùi bước. Đây là thời kỳ người ta mệnh danh là thời kỳ giành độc lập [1].

Với người Pháp, họ là người yếu thế trong Chiến tranh, nên từ 1943 - 1944 đã bị giảm dần ảnh hưởng và sau đó là rút khỏi hai lãnh thổ bảo hộ của họ là Syria và Lebanon.

Người Mỹ thực sự chứng tỏ vai trò trong khu vực trong việc thành lập Nhà nước Do Thái vào năm 1948. Israel trở thành quốc gia của người Do Thái còn nhận được sự công nhận của Liên Xô, thành viên Hội đồng Bảo an Liên Hiệp quốc.   

Từ đó, bản đồ dầu mỏ thế giới thực sự định hình với các quốc gia “máu mặt” vùng Trung Đông – thế giới Arab: Iran, Iraq, Saudi Arabia, Lybia, Các tiểu vương quốc Arab thống nhất (UAE)… Nhà sản xuất truyền thống từ thế kỷ trước vẫn là Hoa Kỳ, đồng thời có thêm Liên Xô, nước có những vùng dầu tiềm năng như Ajerbaizan, Kazakhstan hay Biển Bắc.

{keywords}
Ảnh: Reuters

Đến năm 1960, khai thác dầu khí trên thế giới hầu hết do các Công ty Anh – Mỹ đảm nhiệm thông qua các hợp đồng thuê mỏ dầu và thu tiền cho thuê mỏ (royalties). Thỉnh thoảng cũng có những cuộc đấu tranh, thậm chí xung đột vũ trang để định lại tiền thuê mỏ này, như ở Mexico thời kỳ giữa hai cuộc Chiến tranh thế giới, hoặc ở Iran thời Mossadegh từ 1951 đến 1953. Nếu như người Venezuela đạt được thỏa thuận cho thuê mỏ dầu là 50/50 (%) vào năm 1948 thì cũng trong thời gian này, các nước Trung Đông chỉ đạt được 12,5%.

Chính sự bất bình đẳng đó đã dẫn đến quá trình sắp xếp lại mọi thứ, từ việc loại dần quyền bảo hộ của đế quốc, điển hình là Anh quốc, thành lập các quốc gia độc lập trong khu vực và sau này, tiến tới thành lập một tổ chức đa quốc gia chung cho các nước xuất khẩu dầu mỏ.

Đặc điểm của thời kỳ này là giá dầu mỏ được duy trì ở mức thấp, đã làm cho thế giới chuyển dần sang dùng dạng năng lượng hóa thạch này. Bảng số liệu dưới đây được tổng hợp từ các nguồn tham khảo:

NHU CẦU NĂNG LƯỢNG THẾ GIỚI SO SÁNH THEO NĂM
Nguồn năng lượng / năm 1950 1960 1972
Than đá 55,7% 44,2% 28,7%
Điện 6,5% 6,4% 6,9%
Tổng than đá + điện 62,2% 50,6% 35,6%
Dầu mỏ 28,9% 35,8% 46%
Khí tự nhiên 8,9% 13,5% 18,4%
Tổng Dầu mỏ + khí tự nhiên 37,8% 49,4% 64,4%
Tổng cộng 100% 100% 100%

Như vậy, từ chỗ chỉ chiếm khoảng 1/3 (năm 1950), dầu khí đã chiếm tỷ trọng 2/3 nhu cầu tiêu thụ năng lượng toàn thế giới (năm 1972).

Tháng 9/1960, các nước xuất khẩu dầu mỏ Iran, Iraq, Kuwait, Saudi Arabia và Venezuela đã tiến hành cuộc đàm phán tại Bagdad, đi đến thành lập Tổ chức các nước xuất khẩu dầu lửa (OPEC). Mục tiêu thành lập của tổ chức là thống nhất về chính sách cân đối cung cầu về dầu mỏ và khí đốt, để đảm bảo thu nhập của các nước thành viên cũng như chủ động về giá dầu mỏ - trên thực tế tạo ra khan hiếm hoặc dư thừa dầu mỏ một cách giả tạo để giữ độc quyền trong lĩnh vực này. (Trong các loạt bài này chúng ta sẽ nghiên cứu vai trò của tổ chức này trong các cuộc chiến dầu mỏ mà nước này sử dụng để chống lại nước khác).

Cuộc chiến đầu tiên của OPEC là chĩa mũi nhọn tấn công về phía các công ty, tập đoàn dầu mỏ. Việc đóng cửa kênh đào Suez bắt buộc các Công ty phải tăng kích thước tầu chở dầu chẳng hạn, là một minh chứng cho cuộc chiến này. Đồng thời OPEC cũng rất hiệu quả trong việc tăng tiền thuê mỏ.

Mặc khác OPEC đề ra mục tiêu tăng dần lượng giếng dầu được quốc hữu hóa trong các quốc gia thành viên để giảm mức phụ thuộc tư bản nước ngoài. Algerie và Lybia là hai nước rất thành công trong mục tiêu này.

Cuộc chiến giá dầu còn tiếp diễn

Liên Xô là nước có nhu cầu sử dụng dầu khí tăng khá nhanh: năm 1960 Liên Xô chỉ sử dụng 37% hydrocarbon, thì đến năm 1975 là 63,7% (xấp xỉ nhịp độ của thế giới). Liên Xô đồng thời cũng là nước rất chủ động trong nguồn cung cấp vì có tiềm năng lớn trong trữ lượng dầu mỏ.

Năm 1975, Liên Xô sản xuất được 490 triệu tấn dầu thô và vượt Hoa Kỳ vốn là một trong những nước sản xuất dầu lớn nhất thế giới thời đó (theo tạp chí New Scientist số tháng 1/1976 - Soviet union ousts OPEC states as top oil producer). Cũng năm đó người ta đánh giá trữ lượng dầu mỏ của Liên Xô là khai thác thoải mái đến hết thế kỷ 20, thực tế nước Nga hiện nay cho thấy tiềm năng này là lớn hơn rất nhiều.

Năm 1975 Hoa Kỳ là nước sản xuất được 420 triệu tấn dầu thô, nhưng vì nhu cầu trong nước quá cao nên năm này Hoa Kỳ nhập khẩu 40% lượng tiêu thụ và đạt 50% vào năm 1980. Cùng với Liên Xô, Hoa Kỳ là hai nước rất ít bị ảnh hưởng bởi “khủng hoảng năng lượng.” 

Năm 1991 được đánh dấu với sự tan rã của Liên Xô, và trên bản đồ năng lượng thế giới xuất hiện những nhà xuất khẩu dầu mới: Liên Bang Nga, Ajerbaizan, Kazakhstan, Turmenistan, Uzbekistan.

Trong suốt mấy thập niên, Hoa Kỳ đi từ nước sản xuất dầu truyền thống (từ thế kỷ 19), giảm dần sản lượng do có sự thay đổi chiến lược trong chính sách năng lượng, chuyển sang trở thành nhà nhập khẩu dầu mỏ có hạng của thế giới. Tuy nhiên trong vài năm gần đây, việc Hoa Kỳ thành công trong công nghệ khai thác dầu từ đá phiến theo phương pháp khoan ngang, đã làm cho nước này giảm mạnh nhu cầu nhập khẩu dầu mỏ, tạo điều kiện cho sự áp dụng chính sách thao túng giá dầu để “gây khó” cho các nước dựa nhiều vào nguồn thu dầu mỏ này: Nga, Iran.

Từ cú sốc giá dầu 2007-2008, giá dầu thế giới tiếp tục giữ ở mức cao trên 100 USD/thùng, cho đến tận “Cuộc chiến giá dầu 2014” của Obama, chống lại nước Nga của V. Putin. Một lần nữa cùng với Saudi Arabia, Hoa Kỳ của Obama lại sử dụng vũ khí dầu mỏ. Chỉ từ tháng 6 năm nay giá dầu Brent còn ở mức 115 USD/thùng, thì nay giá chỉ còn phân nửa, chấp nhận bù lỗ cho các Công ty dầu đá phiến trong nước có điểm hòa vốn là từ 70 đến 110 USD/thùng. Nước Nga là nước có sản lượng 10,6 triệu thùng một ngày với điểm hòa vốn là khoảng 90 USD, đứng trước những khó khăn, mà như nhiều chuyên gia dự đoán, nền kinh tế nước này sẽ rơi vào suy thoái trong năm tới.

Trước một tổng thống Putin đầy quyết tâm, hẳn rằng Hoa Kỳ và đồng minh sẽ phải tiếp tục cuộc chiến giá dầu thêm một thời gian không ngắn nữa. Giá dầu thế giới trong năm 2015 còn tiếp tục giảm, điều này là có căn cứ.  

(Còn tiếp)

Phúc Lai

>> Đón đọc các phần sau: Nhìn lại một số cuộc chiến giá dầu, tạo nên những “cú sốc dầu mỏ” mà thế giới đã gặp trong khoảng 40 năm lại đây.

-------

 Tài liệu tham khảo:

1. “Lịch sử quan hệ ngoại giao từ 1919 đến nay” – Jean Baptiste Duroselle, những người dịch Lưu Đoàn Huynh, Quách Ngọc Bảo; bản xuất bản của Học viện Quan hệ quốc tế (nay là học viện Ngoại giao), 1994. Có tham khảo thêm bản pdf “Histoire diplomatique de 1919 à nos jours” Paris, Dalloz, 1974, 871 trang.

2. Các bài viết trên các báo, trang web: Website chính thức của OPEC (Opec.org), Telegraph, Stanford.edu, Brookings.edu, New Scientist, v.v…