Nghè Nguyệt Viên được khởi dựng cuối thế kỷ XVI, năm Quý Tỵ, triều vua Lê Thế Tông (1593). Nghè được trùng tu năm Đinh Hợi niên hiệu Minh Mệnh (1827) và sửa chữa tiếp vào năm Bính Thân niên hiệu Thành Thái (1896). Năm 1996, nghè được xếp hạng di tích kiến trúc nghệ thuật cấp tỉnh.
Trước đây, Nghè nằm trong khuôn viên có quy mô lớn của làng Nguyệt Viên, có giếng nước, cầu đá cùng nhiều cây cổ thụ. Qua thời gian, các công trình trên bị dỡ bỏ, để lại duy nhất nghè này. Đến nay, công trình nằm trên một diện tích chừng 2.500m2.
Nghè Nguyệt Viên có kiến trúc độc đáo. Hiện nơi đây còn lưu giữ được nhiều mảng chạm khắc trang trí tinh tế, đặc sắc, tiêu biểu cho nghệ thuật thời Nguyễn đầu thế kỷ XIX. Các hình ảnh đầu rồng, phượng, lân được khắc vào từng vị trí cố định trên các đầu dư, rường, các góc đầu nối với các cột cái... một cách mềm mại, uyển chuyển nhưng vẫn toát lên sự sắc sảo, uy nghi.
Nghè có cấu trúc một gian hai chái, bố cục gần giống hình vuông, kết cấu vì kèo khá đặc biệt. Ngoài ra, bộ khung gỗ của nghè vững chắc, bề thế với những mảng chạm khắc nghệ thuật các linh vật, hoa lá tỉ mỉ.
Kiến trúc cầu kỳ đẹp mắt cùng với những đường nét điêu khắc nghệ thuật tinh xảo tạo cho nghè Nguyệt Viên thêm phần linh thiêng, trang trọng vừa thực sự gần gũi, gắn bó với cuộc sống đời thường của người dân trong làng.
Hiện di tích nghè Nguyệt Viên vẫn còn tấm bia ghi danh 11 vị tiến sĩ của làng Nguyệt Viên đỗ đạt thời Phong kiến.
Bức đại tự trên trong nghè Nguyệt Viên qua bao thời gian vẫn còn nguyên vẹn. 
Hàng năm, vào mùng 10/2 âm lịch, lễ hội nghè Nguyệt Viên lại được tổ chức với nhiều hoạt động ý nghĩa. Lễ hội thu hút đông đảo người dân trong vùng bởi các hoạt động mang tính cộng đồng cao, như đua thuyền trên sông Mã, kéo hẹ, tú huần, hát đối...
Nghè Nguyệt Viên được xây dựng từ năm 1593. Khác với nhiều di tích, người được thờ ở nghè Nguyệt Viên lại là một nữ Thành hoàng làng - với bài vị ghi rõ "Chương vĩ dực bảo Trung hưng Thượng đẳng thần".