Là một đất nước đang hội nhập mạnh mẽ vào cộng đồng quốc tế, Việt Nam thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển với chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế. Tại Hội nghị Đối ngoại toàn quốc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng (tháng 12/2021), Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khái quát: dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, trên cơ sở vận dụng sáng tạo những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, kế thừa và phát huy truyền thống, bản sắc đối ngoại, ngoại giao và văn hóa dân tộc, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa thế giới và tư tưởng tiến bộ của thời đại, Việt Nam đã xây dựng nên một trường phái đối ngoại và ngoại giao rất đặc sắc và độc đáo, thấm đượm tâm hồn, cốt cách và khí phách của dân tộc Việt Nam. Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ Phạm Bình Minh cũng khẳng định: Nhìn tổng thể, đối ngoại đã phối hợp chặt chẽ với các ngành, lĩnh vực dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp, tuyệt đối, toàn diện của Đảng và quản lý thống nhất của Nhà nước, phát huy được sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc và hệ thống chính trị, hoàn thành tốt các nhiệm vụ, phát huy vai trò tiên phong trong giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, bảo vệ vững chắc chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và lợi ích quốc gia, dân tộc, bảo vệ Đảng, chế độ xã hội chủ nghĩa.

Đối ngoại quốc phòng là bộ phận của đối ngoại quốc gia, thực hiện quan điểm bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, từ trong thời bình, nỗ lực ngăn ngừa không để xảy ra xung đột, giải quyết các tranh chấp bằng biện pháp hòa bình, phù hợp với luật pháp quốc tế, góp phần bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, kiến tạo môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng, phát triển đất nước.

Thực hiện đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng đã lãnh đạo, chỉ đạo triển khai đồng bộ, toàn diện công tác đối ngoại quốc phòng, đạt được nhiều kết quả nổi bật. Đó là, đã chủ động, tích cực tham mưu với Đảng, Nhà nước giải quyết các vấn đề chiến lược liên quan đến quốc phòng, an ninh, biên giới lãnh thổ của Tổ quốc, không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống. Xử lý tốt quan hệ quốc phòng với các nước, đặc biệt là với các nước láng giềng, các nước lớn, tạo thế đan xen chiến lược, bảo đảm lợi ích quốc gia, dân tộc; tích cực củng cố tình hữu nghị, đoàn kết quốc tế, thúc đẩy quan hệ, hợp tác quốc phòng, tăng cường tiềm lực phục vụ nhiệm vụ xây dựng Quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; góp phần củng cố lòng tin chiến lược giữa Việt Nam với các nước, nâng cao vị thế, uy tín của đất nước và Quân đội nhân dân Việt Nam trên trường quốc tế.

Đến nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ hợp tác quốc phòng với hơn 100 nước trên thế giới, trong đó có đầy đủ 05 nước Ủy viên Thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc và tất cả các nước lớn trên nhiều lĩnh vực, cơ chế hợp tác thực chất, hiệu quả, như: đào tạo, trao đổi đoàn quân sự; hợp tác quân, binh chủng, công nghiệp quốc phòng; gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc; đối thoại chính sách quốc phòng và hoạt động giao lưu quốc phòng biên giới, biên cương thắm tình hữu nghị, kết nghĩa đồn, trạm, cụm dân cư hai bên biên giới; diễn tập phòng, chống các thách thức an ninh truyền thống, phi truyền thống (quân y, cứu hộ - cứu nạn, cướp biển, tội phạm xuyên biên giới); tổ chức các hoạt động tuần tra chung trên biên giới, trên biển; tham gia Hội thao Quân sự Quốc tế Army Games, Hội thao Quân sự Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN); hợp tác trong khắc phục hậu quả chiến tranh, xử lý ô nhiễm bom, mìn và chất độc da cam/dioxin; tăng cường đối ngoại phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.

Trên bình diện đa phương, Quân đội nhân dân Việt Nam đã trở thành thành viên tích cực và trách nhiệm của các cơ chế, diễn đàn hợp tác quốc phòng đa phương ở khu vực và quốc tế, như: Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng các nước ASEAN (ADMM), Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng các nước ASEAN mở rộng (ADMM+), Diễn đàn an ninh khu vực ASEAN (ARF), Đối thoại Shangri-La, Hội nghị an ninh quốc tế Moscow, Diễn đàn Hương Sơn - Bắc Kinh, Đối thoại Quốc phòng Seoul;… đồng thời, chủ động đóng góp xây dựng, đề xuất nhiều sáng kiến quan trọng tại các diễn đàn, cơ chế hợp tác này. Trong khuôn khổ Liên hợp quốc, nhất là từ năm 2014 đến nay, Việt Nam đã cử hơn 250 lượt cán bộ, nhân viên với 03 lượt bệnh viện dã chiến đến phái bộ Gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc tại Nam Sudan, Cộng hòa Trung Phi và Trụ sở Liên hợp quốc. Hiện tại, chúng ta đang hoàn tất công tác chuẩn bị để triển khai Đội Công binh tới Phái bộ UNISFA tại Sudan với quân số 184 cán bộ. Qua đó, khẳng định trách nhiệm của Việt Nam trong thực hiện các nghĩa vụ của quốc gia thành viên Liên hợp quốc, tích cực đóng góp vào công cuộc gìn giữ và kiến tạo hòa bình trên thế giới.

Những năm tới, tình hình thế giới và khu vực tiếp tục có nhiều diễn biến phức tạp, khó dự báo. Cạnh tranh chiến lược, xung đột cục bộ có thể diễn ra gay gắt hơn; chủ nghĩa dân túy, dân tộc cực đoan, thực dụng, cường quyền nước lớn trong quan hệ quốc tế gia tăng. Biển Đông vẫn tiềm ẩn nhiều bất trắc, khó lường. Các yếu tố an ninh phi truyền thống, nhất là an ninh mạng, khủng bố, thiên tai, dịch bệnh,… vẫn tiếp diễn phức tạp, tác động đến việc triển khai thực hiện nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, an ninh, trong đó có công tác hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng.

Trước tình hình đó, đòi hỏi chúng ta phải thường xuyên nắm chắc, đánh giá, kết luận đúng tình hình; có nhiều giải pháp đồng bộ, quyết liệt nhằm tăng cường quốc phòng, bảo vệ vững chắc Tổ quốc, không để đất nước bị động bất ngờ trong mọi tình huống; trong đó, công tác hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng là một trong những nội dung quan trọng, cấp thiết. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã xác định: “Tiếp tục phát huy vai trò tiên phong của đối ngoại trong việc tạo lập và giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, huy động các nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước, nâng cao vị thế và uy tín của đất nước”1. Đây là lần đầu tiên trong Văn kiện Đại hội Đảng xác định cụ thể và sâu sắc vị trí, vai trò của công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế. Điều đó làm sáng rõ hơn nhiệm vụ trọng yếu của công tác đối ngoại là tiên phong trong việc giữ vững môi trường hòa bình, tạo điều kiện thuận lợi cho việc kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, thực hiện thắng lợi mục tiêu cao nhất là bảo đảm lợi ích quốc gia, dân tộc.

Bám sát chủ trương trên, để phát huy những kết quả đã đạt được và tiếp tục đẩy mạnh công tác đối ngoại quốc phòng trong thời gian tới, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc, toàn quân cần tích cực, chủ động, không ngừng đổi mới, sáng tạo triển khai đồng bộ, quyết liệt các chủ trương, giải pháp nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại quốc phòng; trong đó, tập trung vào một số vấn đề cụ thể sau:

Một là, triển khai hoạt động đối ngoại quốc phòng theo đường lối đối ngoại đã được xác định trong Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII; Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XI) về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”; Nghị quyết số 22-NQ/TW, ngày 10/4/2013  của Bộ Chính trị (khóa XI) về “Hội nhập quốc tế”; Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ Quân đội lần thứ XI và Nghị quyết số 806-NQ/QUTW, ngày 31/12/2013 của Quân ủy Trung ương về hội nhập quốc tế và đối ngoại về quốc phòng đến năm 2020 và những năm tiếp theo, v.v. Quá trình triển khai cần bám sát, tuân thủ những vấn đề cốt lõi, có tính nguyên tắc,… đồng thời, có sự vận dụng linh hoạt, sáng tạo trong thực tiễn sinh động của hoạt động quân sự, quốc phòng. Trên cơ sở đó, chủ động xây dựng nghị quyết, đề án, kế hoạch, chương trình hành động hội nhập quốc tế và đối ngoại về quốc phòng, bảo đảm chặt chẽ, khoa học, có tính khả thi cao. Đẩy mạnh công tác đối ngoại quốc phòng theo phương châm “tích cực, chủ động, chắc chắn, linh hoạt, hiệu quả”; kết hợp giữa triển khai thực hiện với cập nhập bổ sung, điều chỉnh nội dung các chương trình, kế hoạch, đề án về đối ngoại quốc phòng phù hợp với điều kiện mới, nhất là trong tình hình dịch Covid-19.

Hai là, tiếp tục kiên định đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ; kiên trì thực hiện chính sách đối ngoại rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa, vừa hợp tác, vừa đấu tranh, gia tăng cơ hội hợp tác, giảm thiểu nguy cơ xung đột, đối đầu, tránh bị cô lập, lệ thuộc hoặc rơi vào thế phải “chọn bên”. Quá trình thực hiện, cần kết hợp chặt chẽ giữa tập trung phát huy nội lực, với tranh thủ sức mạnh của quốc tế và thời đại. Trong đó, việc phát huy nội lực cần chú trọng tăng cường sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị; củng cố, phát huy thế trận vững chắc quốc phòng - an ninh - đối ngoại dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý, điều hành thống nhất của Nhà nước, phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Ba là, tiếp tục nâng cao chất lượng công tác nghiên cứu, dự báo và tham mưu chiến lược về đối ngoại quốc phòng, nắm chắc các động thái mới ở khu vực và thế giới, cạnh tranh chiến lược, tập hợp lực lượng, can dự của các nước lớn, tình hình Biển Đông; chú trọng đánh giá, phân tích thuận lợi, khó khăn, tác động trực tiếp đến nhiệm vụ đối ngoại quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc; trên cơ sở đó, chủ động tham mưu giúp Đảng, Nhà nước, Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng hoạch định kế hoạch, chiến lược đối ngoại phù hợp. Trước mắt, tập trung xây dựng Chiến lược Hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng đến năm 2030 và những năm tiếp theo bảo đảm chặt chẽ, khoa học và có tính khả thi cao.

Bốn là, chú trọng đưa quan hệ hợp tác quốc phòng song phương với các đối tác, nhất là với đối tác quan trọng, có vị trí chiến lược; đưa khuôn khổ quan hệ đã xác lập đi vào chiều sâu, thực chất, hiệu quả, thiết thực, phù hợp với lợi ích của ta và đối tác. Trong đó, cần chú trọng phát huy đặc trưng, lợi thế của đối ngoại quốc phòng trong xây dựng lòng tin chiến lược với các nước; trên nền tảng đó, đẩy mạnh hợp tác về khoa học kỹ thuật quân sự, thương mại quân sự,… tạo thế đan xen lợi ích, tranh thủ các nguồn lực từ bên ngoài để tăng cường tiềm lực quốc phòng cho đất nước. Tiếp tục ưu tiên quan hệ, hợp tác quốc phòng với các nước láng giềng, các nước lớn, các nước ASEAN và các nước bạn bè truyền thống; đồng thời, mở rộng quan hệ, hợp tác với các đối tác có tiềm năng. Rà soát và triển khai thực hiện có hiệu quả các văn bản đã ký kết với các đối tác.

Năm là, tiếp tục nâng tầm đối ngoại quốc phòng đa phương theo tinh thần Chỉ thị số 25-CT/TW, ngày 08/8/2018 của Ban Bí thư về đẩy mạnh và nâng tầm đối ngoại đa phương đến năm 2030; Chỉ thị số 12-CT/TW, ngày 05/01/2022 của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, nâng cao hiệu quả đối ngoại nhân dân trong tình hình mới. Quá trình thực hiện cần theo hướng mở rộng lĩnh vực, địa bàn, quy mô; tích cực, chủ động đưa ra sáng kiến và tham gia có trách nhiệm, hiệu quả vào các cơ chế, diễn đàn an ninh khu vực và quốc tế, nhất là cơ chế hợp tác quốc phòng trong khuôn khổ ASEAN. Tiếp tục đẩy mạnh tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc theo Nghị quyết số 130/2020/QH14, ngày 13/11/2020 của Quốc hội; gắn đối ngoại quốc phòng với các mặt trận đối ngoại, nhất là đối ngoại nhân dân. Phối hợp chặt chẽ, hiệu quả với các ban, bộ, ngành Trung ương, địa phương và cơ quan đại diện ngoại giao của Việt Nam ở nước ngoài để phục vụ tốt các hoạt động đối ngoại cấp cao của Lãnh đạo Đảng và Nhà nước; phát huy vai trò, hiệu quả hoạt động của Ban Chỉ đạo Hội nhập quốc tế và Đối ngoại quốc phòng của Bộ Quốc phòng.

Sáu là, tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền đối ngoại quốc phòng, làm cho bạn bè quốc tế hiểu rõ chính sách quốc phòng hòa bình, tự vệ của Việt Nam. Trong đó, cần tích cực đổi mới nội dung, hình thức, phương pháp thông tin, tuyên truyền đối ngoại theo hướng thiết thực, hiệu quả, phù hợp với đặc điểm, nhiệm vụ đối ngoại quốc phòng Việt Nam và xu thế toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế; kết hợp tuyên truyền đối ngoại quốc phòng với quảng bá hình ảnh đất nước, con người và Quân đội nhân dân Việt Nam với các nước, nhằm nâng cao vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế. Tiếp tục hoàn thiện, nâng cao chất lượng hệ thống văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến đối ngoại quốc phòng, bảo đảm phù hợp luật pháp, thông lệ quốc tế và đồng bộ, thống nhất với văn bản pháp luật đối ngoại quốc gia, phù hợp với đặc điểm hoạt động đối ngoại quốc phòng, đáp ứng cả yêu cầu trước mắt và lâu dài.

Bảy là, quan tâm xây dựng nguồn nhân lực đối ngoại quốc phòng, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu xây dựng nền ngoại giao hiện đại của đất nước. Theo đó, cùng với đẩy mạnh xây dựng đội ngũ cán bộ đối ngoại quốc phòng nói chung, cần tập trung nâng cao chất lượng xây dựng đội ngũ cán bộ đối ngoại quốc phòng chuyên trách có bản lĩnh chính trị vững vàng, trung thành tuyệt đối với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và Quân đội; có trình độ, năng lực chuyên môn đối ngoại cao; có tư duy đối ngoại tầm chiến dịch, chiến lược; có năng lực tham mưu, quản lý và hướng dẫn hoạt động thực tiễn; nhạy bén, sắc sảo, linh hoạt trong xử lý các tình huống đối ngoại,… đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của nhiệm vụ quan trọng này. Tiếp tục kiện toàn cơ quan đối ngoại trong toàn quân, trọng tâm là các quân khu, lực lượng trực tiếp thực hiện công tác đối ngoại quốc phòng, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế và đối ngoại về quốc phòng trong tình hình mới.

Thượng tướng HOÀNG XUÂN CHIẾN, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Ủy viên Quân ủy Trung ương, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng
_________________

1 - ĐCSVN – Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập I, Nxb CTQGST, H. 2021, tr. 162.