Nhờ đó, kinh tế biển của tỉnh Quảng Bình đã có nhiều khởi sắc, từng bước khẳng định hướng đi đúng đắn trong phát triển kinh tế biển bền vững gắn với cơ cấu lại kinh tế địa phương trong giai đoạn mới.

Quảng Bình là tỉnh ven biển miền Trung, có đường bờ biển dài trên 116km, thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế rộng trên 2 vạn km2, có 6/8 huyện, thị xã, thành phố giáp biển, 5 cửa sông lớn, có hệ thống đảo Hòn La, Hòn Gió, Hòn Chùa, Hòn Nồm, Hòn Cỏ. Vịnh Hòn La có diện tích mặt nước 4km2 với độ sâu trên 15m và các đảo che chắn xung quanh, là điều kiện thuận lợi để phát triển cảng biển, khu neo đậu, dịch vụ hậu cần nghề cá và vận tải biển. Ngư trường rộng, trữ lượng hải sản lớn, ước tính khoảng 10 vạn tấn, với 1.650 loài hải sản có giá trị kinh tế cao, như tôm hùm, tôm sú, mực nang, mực ống,... Nhiều bãi tắm đẹp, như Vũng Chùa - Đảo Yến, Đá Nhảy, Nhật Lệ, Hải Ninh, Ngư Thủy... kết hợp với hệ thống đường giao thông đồng bộ, dễ dàng kết nối với các tỉnh, thành phố trong nước và khu vực. Hệ thống đường ven biển đang được xây dựng là những điều kiện thuận lợi để địa phương phát triển các ngành kinh tế biển.

Một góc biển Quảng Bình

Sau hơn 10 năm triển khai thực hiện Chiến lược biển Việt Nam, đặc biệt là sau hơn 3 năm thực hiện Nghị quyết số 36-NQ/TW, ngày 22-10-2018, của Hội nghị Trung ương 8 khóa XII, “Về chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”, Tỉnh ủy Quảng Bình đã ban hành Chương trình hành động số 27-CTr/TU, ngày 20-3-2019, “Về thực hiện Nghị quyết số 36-NQ/TW”, trên cơ sở đó các cấp, các ngành và địa phương đã tổ chức quán triệt, cụ thể hóa và triển khai thực hiện.

Tỉnh đã thành lập Ban Chỉ đạo, xây dựng Quy chế và Kế hoạch thực hiện Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam giai đoạn 2021 - 2025; chú trọng rà soát, điều chỉnh, bổ sung, nâng cao chất lượng và tính khả thi của các chiến lược, quy hoạch phát triển ngành, lĩnh vực, địa phương gắn với thực hiện phát triển bền vững kinh tế biển, ven biển gắn với tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh trên địa bàn tỉnh. Đặc biệt, tỉnh đã tích hợp nội dung phát triển kinh tế biển vào Quy hoạch tỉnh Quảng Bình thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050. Với những định hướng đúng đắn và giải pháp cụ thể, những năm qua, kinh tế biển của tỉnh Quảng Bình đạt được những kết quả quan trọng, bao gồm:

Thứ nhất, dịch vụ và du lịch biển có bước phát triển mạnh. Tỉnh Quảng Bình là điểm đến hấp dẫn của nhiều du khách trong và ngoài nước, trở thành địa chỉ tin cậy của các nhà đầu tư. Giai đoạn 2016 - 2020, tổng số khách du lịch đến tỉnh Quảng Bình đạt 19,7 triệu lượt khách, doanh thu tăng bình quân 9% - 10%/năm(1). Công tác xúc tiến, quảng bá được thực hiện với nhiều hình thức đa dạng, nội dung phong phú, chuyên biệt hóa theo từng phân khúc thị trường khách du lịch nội địa và quốc tế. Hệ thống cơ sở lưu trú, khu nghỉ dưỡng cao cấp được đầu tư ngày càng hiện đại, với nhiều thương hiệu quốc tế, đặc biệt là các dự án trọng điểm du lịch vùng ven biển đáp ứng nhu cầu du lịch, nghỉ dưỡng của du khách, góp phần phát triển kinh tế của tỉnh, đồng thời sớm đưa ngành du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn.

Thứ hai, công nghiệp, khu kinh tế ven biển được quan tâm đầu tư, đang tiến triển tốt. Khu kinh tế Hòn La bước đầu hình thành mạng lưới các công trình hạ tầng kỹ thuật quan trọng tạo điều kiện đầu tư, xúc tiến đầu tư. Với tổng mức đầu tư trên 41.000 tỷ đồng, Khu kinh tế Hòn La là công trình quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, khu vực và cả nước. Dự án góp phần tăng nguồn thu ngân sách cho tỉnh và khu vực Bắc Trung Bộ, tạo thuận lợi phát triển các ngành công nghiệp hỗ trợ, góp phần thay đổi diện mạo và đời sống của người dân khu vực ven biển. Tỉnh cũng đã lập quy hoạch, tiến hành đầu tư và kêu gọi đầu tư, xây dựng hoàn thiện kết cấu hạ tầng các khu công nghiệp, khu đô thị ven biển mới, như Khu công nghiệp Tây Bắc Quán Hàu, Cam Liên, khu đô thị sinh thái Quang Phú, Bảo Ninh, Hải Ninh... theo hướng tiếp cận mô hình khu công nghiệp sinh thái, có sức hấp dẫn các nhà đầu tư, thu hút và sử dụng hiệu quả các nguồn lực.

Thứ ba, nuôi trồng và khai thác thủy sản ngày càng phát triển. Hiện nay toàn tỉnh có trên 1.000 tàu khai thác hải sản xa bờ, vùng biển xa. Năm 2021, tổng sản lượng thủy sản khai thác đạt trên 89.000 tấn, tăng 3,3% so với cùng kỳ năm trước. Công tác hiện đại hóa tàu cá, cải tiến công nghệ khai thác được chú trọng. Chính sách khuyến khích, hỗ trợ khai thác, nuôi trồng hải sản và dịch vụ khai thác hải sản trên các vùng biển xa được quan tâm đầu tư. Hợp tác xã, tổ hợp tác, tổ đội đoàn kết sản xuất trên biển được quan tâm phát triển, đến nay đã có 2 hợp tác xã, 86 tổ đoàn kết/485 tàu và 113 tổ hợp tác/925 tàu. Công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm soát hoạt động khai thác được triển khai thực hiện nghiêm túc, đầy đủ góp phần ngăn chặn hành vi vi phạm về khai thác thủy sản, vi phạm khai thác IUU(2) và gỡ cảnh cáo thẻ vàng của EC(3). Công tác bảo vệ nguồn lợi thủy sản thực hiện hiệu quả, hệ thống cơ sở dịch vụ hậu cần nghề cá, như: cảng cá, bến cá, khu neo đậu tránh trú bão tàu cá, cơ sở đóng mới, sửa chữa tàu cá, dịch vụ cung ứng phục vụ khai thác được đầu tư xây dựng, nâng cấp, từng bước đáp ứng nhu cầu ngư dân.

Thứ tư, kinh tế hàng hải và các ngành kinh tế biển mới bước đầu khai thác và phát huy hiệu quả. Các chỉ tiêu về cảng biển tăng trưởng mạnh, số lượng hàng hóa và lượt tàu qua cảng đều tăng, sản lượng hàng hóa thông qua cảng biển đạt trung bình 3,5 triệu tấn/năm. Ngoài các bến cảng đang khai thác, trên địa bàn tỉnh hiện có 5 dự án cảng biển, được kêu gọi, xúc tiến đầu tư, ưu tiên xây dựng hoàn thiện hạ tầng logistics và các tuyến đường giao thông, kết nối liên thông cảng biển Hòn La với đường 12, kết nối với Lào, Đông Bắc Thái Lan, Mi-an-ma và các nước trong khu vực...

Thứ năm, khai thác khoáng sản biển, năng lượng tái tạo, công tác điều tra cơ bản tài nguyên biển được chú trọng nâng cao hiệu quả. Khai thác các tài nguyên khoáng sản biển, vùng ven biển gắn với chế biến sâu, đặc biệt là titan và cát trắng thạch anh ngày càng đạt hiệu quả. Tỉnh đã yêu cầu đẩy nhanh tiến độ thực hiện dự án Trung tâm Nhiệt điện Quảng Trạch, dự án cụm trang trại điện gió B&T, dự án điện năng lượng mặt trời Dohwa đúng tiến độ và sớm đưa vào hoạt động. Hiện nay, nhiều nhà đầu tư đang khảo sát đầu tư điện tái tạo tại khu vực ven biển và vùng biển xa, góp phần bảo đảm nhu cầu về điện năng để phát triển kinh tế - xã hội trong nước và khu vực.

Thứ sáu, công tác an sinh xã hội được triển khai đồng bộ, hiệu quả. Chất lượng chăm sóc y tế, giáo dục, cấp điện, thông tin liên lạc, nước ngọt, bảo đảm an ninh, an toàn cho dân cư vùng ven biển và những người lao động trên biển được quan tâm. Tỉnh đã thực hiện tốt Đề án Phát triển y tế biển, đảo Việt Nam đến năm 2020 và tiếp tục cho giai đoạn đến năm 2030. Cùng với nhiều giải pháp bảo đảm an sinh xã hội cho nhân dân; bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa cộng đồng dân cư ven biển, tỉnh còn đẩy mạnh nâng cao nhận thức về biển cho nhân dân để mỗi người dân và toàn xã hội phát huy tối đa tinh thần trách nhiệm, chung tay khai thác hiệu quả các nguồn lực; bảo vệ môi trường biển, giữ vững toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ và lợi ích quốc gia trên biển.

Thứ bảy, phát triển khoa học - công nghệ, bảo vệ môi trường và phòng, chống thiên tai được chú trọng. Tỉnh đã xây dựng phân vùng chức năng vùng bờ tỉnh Quảng Bình đến năm 2030, và kế hoạch ứng phó với biến đổi khí hậu và nước biển dâng; thực hiện hiệu quả kế hoạch ứng phó sự cố tràn dầu và bản đồ nhạy cảm môi trường đường bờ phục vụ ứng phó sự cố tràn dầu tỉnh Quảng Bình; tổ chức triển khai thực hiện phong trào chống rác thải nhựa, nhất là rác thải nhựa đại dương trên địa bàn tỉnh. Mô hình “thu gom rác thải trên tàu cá” đạt hiệu quả rất tích cực. Công tác kiểm soát, quan trắc tổng hợp môi trường biển và hải đảo tỉnh Quảng Bình được triển khai hằng năm, hành lang bảo vệ bờ biển tỉnh Quảng Bình được thiết lập để có cơ sở định hướng, điều chỉnh các quy hoạch, kế hoạch và giải quyết các mâu thuẫn trong khai thác; đồng thời, góp phần bảo vệ và cải thiện môi trường, bảo tồn đa dạng sinh học, các giá trị văn hóa, cảnh quan di tích ven biển, bảo đảm quyền tiếp cận của người dân với biển; giảm nhẹ tác động của thiên tai, biến đổi khí hậu và nước biển dâng đến sinh kế cộng đồng ven biển, đáp ứng phát triển bền vững vùng ven biển, đảo của tỉnh.

Chương trình nâng cấp và cải tạo hệ thống đê biển và thực hiện đề án phòng, chống sạt lở bờ sông, bờ biển đến năm 2030 đã hoàn thành việc xây dựng. Tỉnh đã hoàn thiện nâng cấp hơn 21km đê, kè; trồng mới và chăm sóc trên 3.700ha rừng phòng hộ ven biển và đang triển khai dự án hiện đại hóa ngành lâm nghiệp và tăng cường chống chịu vùng ven biển; thực hiện hằng năm các dự án nạo vét các cửa sông ven biển, luồng hàng hải vùng các cửa sông ven biển của tỉnh.

Thứ tám, công tác quốc phòng, an ninh, đối ngoại và hợp tác quốc tế về biển được bảo đảm. Lực lượng vũ trang tổ chức phối hợp chặt chẽ với các sở, ngành, địa phương thẩm định hồ sơ, kết hợp với kiểm tra tại thực địa các dự án nhằm bảo đảm phát triển kinh tế - xã hội gắn với nhiệm vụ quốc phòng - an ninh. Công tác tuần tra, kiểm soát bảo vệ chủ quyền biển, đảo được bảo đảm, việc thẩm định các công trình dự án phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn khu vực biên giới biển được triển khai tích cực; việc tạo điều kiện, khuyến khích ngư dân vươn khơi bám biển, triển khai, quản lý chặt chẽ biên giới biển, phòng, chống dịch bệnh COVID-19, ngăn chặn xuất, nhập cảnh trái phép bằng đường biển được tăng cường.

Tuy nhiên, trong những năm qua, tình hình Biển Đông và vùng biển của tỉnh liên tục có những diễn biến phức tạp. Mặt khác, Quảng Bình là tỉnh có xuất phát điểm thấp, kinh tế - xã hội còn gặp nhiều khó khăn, xa các trung tâm kinh tế, chính trị lớn như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh; thường xuyên chịu ảnh hưởng nghiêm trọng của các loại hình thiên tai, biến đổi khí hậu và nước biển dâng, tình trạng hạn hán, xâm nhập mặn, sạt lở, bồi tụ bờ sông, đặc biệt là bão, lũ lụt; sự cố môi trường biển tại 4 tỉnh miền Trung và dịch bệnh COVID-19 đã ảnh hưởng lớn đến phát triển kinh tế - xã hội, môi trường của tỉnh. Quy hoạch tổng thể phát triển vùng ven biển còn thiếu định hướng và chưa đồng bộ cho phát triển các ngành; liên kết vùng, liên kết ngành gắn với cơ cấu lại các ngành kinh tế còn thiếu cơ chế. Việc huy động các nguồn lực xã hội đầu tư cho phát triển các ngành kinh tế biển còn gặp nhiều khó khăn; vấn đề ô nhiễm môi trường vùng ven biển, cửa sông, rác thải tại các khu dân cư ven biển, đặc biệt là rác thải nhựa đang là thách thức lớn cho sự phát triển bền vững kinh tế biển của tỉnh. Ý thức về khai thác tài nguyên và bảo vệ môi trường biển còn thấp; không gian vùng bờ được khai thác, sử dụng cho các ngành kinh tế cũng như nhu cầu bảo vệ các giá trị văn hóa tự nhiên dẫn đến mâu thuẫn về lợi ích.

Trần Thường, Bích Hạnh, Anh Dũng, Văn Công