Thờ cúng Thành hoàng cũng giống như thờ cúng tổ tiên, nó mang đậm dấu ấn tâm linh và thể hiện quan niệm “uống nước nhớ nguồn” của người dân Việt Nam. Câu chuyện ở Đình Làng Quan Nhân là một minh chứng.

Làng Mọc Quan Nhân vốn là một trang ấp ở bên trái con đường Thượng đạo đi lên Cống Mọc, nơi có cầu bắc qua sông Tô Lịch, nối trấn Sơn Nam với Thăng Long. Đến thế kỷ 19 thì làng đã thuộc loại khá lớn, chia thành xóm Chùa và xóm Sòi, xóm Chùa đông dân hơn, có vài nhà thờ họ.

{keywords}
Đình làng Mọc

Tương truyền, đình Quan Nhân có từ rất sớm, trước năm 1701, là nơi thờ phụng Trung Nghĩa đại vương Hùng Lãng công. Ngài vốn là con thứ của Ninh Hải quận vương, cháu vua Hùng Việt Vương, trước kia trấn trị huyện Vũ Tiên (Thái Bình), sau về giữ vùng Quan Nhân. Ngài từng được phong chức Phổ chính thống lĩnh thủy bộ quân doanh, có công dẹp giặc Nam Chiếu và Lục Nam. Khi về thăm quê, ngài bị giặc làm phản, tự trẫm mình ngày 2 tháng 8 âm lịch. Phu nhân là bà Dục Đức, người ấp Quan Nhân, thủ tiết quyên sinh theo chồng ngày 12 tháng 10 âm lịch, sau được thờ trong Phủ Thánh Bà ở hữu mạc.

Theo Ngọc phả Thần tích do Hàn lâm Đông các Đại học sĩ Nguyễn Bính soạn năm Quý Dậu, triều Lê Anh Tông, niên hiệu Hồng Phúc thứ 2 (1573) thì lúc đầu được xây ở cánh đồng Nền Đình. Đến năm Chính Hòa 21 (1701) đình mới chuyển về trung tâm trang ấp tức vị trí bây giờ; trong đình hiện vẫn còn một tấm bia đá mang niên hiệu nói trên làm chứng.

Đình được xây dựng vào năm Chính Hòa 22 (1701) thời Lê Mạt. Phía bắc Đình giáp với phường Trung Hòa, phía Tây Nam giáp phường Thanh Xuân Bắc, phía Đông và Đông Bắc giáp với phường Láng Hạ và Thượng Đình. Trước Đình là ao sen, bên trái Đình là ngôi chùa có tên Sùng Phúc Tự. Cụm Đền, đình, chùa này là khu vực tập trung các hoạt động lễ nghi, tôn giáo của cư dân làng Quan Nhân, cũng như khách thập phương biết tới Đình.

Theo lời kể của các cụ già trong làng, trước kia, ở phía Đông và Nam đình đều có ao xung quanh Đình Chùa, Phủ… Các ao đều có dòng chảy, thoát nước, lưu thủy ao nọ sang ao kia. 

Một trong những cổ vật đặc biệt nhất được tìm thấy tại Đình là Tấm bia đồng, được dân làng tìm thấy trong đống gạch ngói sụt lở ở phần hậu cung của đình vào năm 1992. Điểm khiến cho tấm bia đặc biệt là ở chất liệu. Bia đá, cha ông ta đã chế tác được nhiều, nhưng bia đồng thì ít ai thấy, điều đó làm cho tấm bia trở thành một di vật quý hiếm của làng Quan Nhân.

Theo như cứ liệu của Viện nghiên cứu Hán Nôm, nội dung khắc trên bia ghi lại công đức của Hùng Lãng Công - một tướng giỏi có công dẹp giặc Nam Chiếu thời vua Hùng. Nhờ uy linh và lòng nhân đức của mình, ông cùng bà Mỵ Nương đã giúp con dân làng Mọc diệt trừ dịch bệnh và miễn sưu sai, thuế dịch. Trong một lần bị giặc vây, để giữ vững khí tiết, ông đã trẫm mình tự “hóa”. Để tỏ lòng tôn kính ông, người làng suy tôn Hùng Lãng Công là Thần. Gian chính cung của đình chính là dùng để thờ Thần (Trung Túc Đại Vương Hùng Lãng Công), cùng với đó là 6 lần đình nhận sắc phong của các triều đại.

Đình Quan Nhân cũng là một di tích Cách mạng ghi dấu những ngày tháng bất khuất và kiên cường của bà con làng Quan Nhân. Ngày 21-07-1945 tại sân đình Quan Nhân, Tự vệ Xung phong Ngoại thành Hà Nội đã tổ chức phá kho thóc Nhật chia cho bà con quanh vùng để cứu đói. Cũng tại đây ngày 16-12-1946, đồng chí Vương Thừa Vũ, Chỉ huy trưởng Chiến khu XI (Hà Nội) đã dự lễ Quyết tử với các đại biểu của Liên khu 3 (Đống Đa).

Theo cụ Lê Sỹ Học (cụ Từ đảm trách việc trông giữ đình) kể lại: Những năm 1946 – 1953, sân đình là nơi chứng kiến tội ác của lũ cướp nước, tra khảo khủng bố bà con một cách hèn hạ và dã man. Nhà Tả mạc (như đã giới thiệu ở phần trên) trong suốt một thời gian dài Cách mạng tháng 8, trở thành nơi tổ chức Đoàn Thanh niên Cứu quốc Quan Nhân tiếp tế cho các gia đình khó khăn, góp phần chiến thắng nạn đói khốc liệt diễn ra cùng năm.

Nhiều chiến sĩ sinh ra từ làng đã ra đi tham gia chiến đấu và hi sinh tại mặt trận Liên khu 3, đáp lại cao trào cách mạng năm 1945 ở Thủ đô. Để ghi nhớ công lao với cách mạng của nhân dân, ngày 27/8/2006, Đảng và Chính phủ đã công nhận đình Quan Nhân là Di tích lịch sử Cách mạng. Đây là niềm tự hào lớn lao, tiếp nối sau khi đình được nằm trong danh mục quần thể di tích lịch sử văn hóa được Bộ Văn hóa và Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) công nhận là Di sản văn hóa cấp quốc gia ngày 30/9/1989.

Mai Hương
Ảnh: Hoàng Hiệp