Từ nhiều năm nay, đa dạng sinh học đã trở thành vấn đề toàn cầu vì hiện có hàng triệu loài động, thực vật đang đứng trước nguy cơ tuyệt chủng do những tác động của con người gây ra. Việt Nam được đánh giá là 1 trong 25 quốc gia có sự đa dạng sinh học cao. 

Là một trong những quốc gia tích cực tham gia các cam kết quốc tế về bảo tồn thiên nhiên, đa dạng sinh học và đang hưởng ứng lời kêu gọi “Thập kỉ phục hồi hệ sinh thái” của Liên Hợp Quốc, Việt Nam đã tham gia nhiều Điều ước quốc tế liên quan đến bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học, cụ thể như Công ước về bảo vệ di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới (gia nhập vào năm 1987), Công ước đa dạng sinh học (gia nhập năm 1994) và các Nghị định thư trong khuôn khổ của Công ước, Công ước Ramsar về bảo tồn các vùng đất ngập nước (Công ước Ramsar, gia nhập năm 1989), Công ước về thương mại quốc tế đối với các loài động, thực vật hoang dã nguy cấp (gia nhập năm 1994)…

W-minhhoa.png
Việt Nam đã thúc đẩy mạnh mẽ việc triển khai các cam kết quốc tế về bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học.

Bước sang thập kỷ mới (2021 - 2030), trong bối cảnh toàn nhân loại đang phải đối mặt với tình trạng thiên nhiên và đa dạng sinh học bị suy thoái nghiêm trọng, cùng với tác động của biến đổi khí hậu, Việt Nam đã thúc đẩy mạnh mẽ việc triển khai các cam kết quốc tế về bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học.

Chính phủ cũng đã thông qua Nghị quyết 05/NQ-CP ngày 15/1/2021 ủng hộ Tuyên bố của các nhà lãnh đạo vì thiên nhiên tại Hội nghị thượng đỉnh về đa dạng sinh học trong khuôn khổ Khóa họp lần thứ 75 của Đại hội đồng Liên hợp quốc; hưởng ứng tuyên bố của Liên hợp quốc về “Thập kỷ phục hồi hệ sinh thái” trong giai đoạn 2021 – 2030; tuyên bố về rừng và sử dụng đất trong khuôn khổ Hội nghị lần thứ 26 của các bên tham gia Công ước Khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu nhằm hướng đến các mục tiêu phát triển bền vững như giảm phát thải khí nhà kính, thích ứng với biến đổi khí hậu, duy trì các dịch vụ hệ sinh thái; ủng hộ Tuyên bố Côn Minh tại Hội nghị các bên tham gia Công ước đa dạng sinh học lần thứ 15 vào năm 2021; ủng hộ và cam kết triển khai thực hiện Khung toàn cầu về đa dạng sinh học sau 2020, với 23 mục tiêu tham vọng toàn cầu cần đạt được đến năm 2030 nhằm giảm suy thoái đa dạng sinh học, từng bước phục hồi thiên nhiên. 

Thời gian qua, Việt Nam đã tích cực tham gia vào quá trình xây dựng các văn kiện chiến lược, nghị quyết và quyết định của các Điều ước. Việt Nam cũng đã chủ động, tích cực triển khai thực hiện các Điều ước và các cam kết ở cấp quốc gia cũng như hợp tác với các tổ chức quốc tế, các nước trên thế giới để giải quyết các vấn đề toàn cầu. Một số kết quả nổi bật trong thời gian qua, có thể kể đến như sau:

Đã tạo lập đầy đủ hành lang pháp lý và chính sách để thúc đẩy bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học: Các nghĩa vụ, trách nhiệm pháp lý đối với quốc tế về bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học đã được chú trọng nội luật hóa và cụ thể hóa để thực hiện trong các chiến lược, chính sách của quốc gia, trong đó có tiếp cận toàn diện để bảo tồn và phát triển bền vững các hệ sinh thái, loài, nguồn gen. Đặc biệt, Chiến lược quốc gia về đa dạng sinh học đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt đã chỉ rõ các nhiệm vụ cụ thể để thực hiện mục tiêu bảo tồn cấp quốc gia và đóng góp thực hiện thành công các mục tiêu toàn cầu đã được thông qua tại Khung Toàn cầu về đa dạng sinh học sau 2020.  

Mạng lưới khu bảo tồn thiên nhiên ngày càng được mở rộng: Đến năm 2023, cả nước đã thành lập 178 khu bảo tồn thiên nhiên, trong đó có 34 vườn quốc gia; 59 khu dự trữ thiên nhiên; 23 khu bảo tồn loài và sinh cảnh; và 62 khu bảo vệ cảnh quan.

Các khu vực tự nhiên có tầm quan trọng quốc tế về bảo tồn được công nhận cũng gia tăng về số lượng. Trong 5 năm trở lại đây đã có thêm 4 Vùng đất ngập nước quan trọng quốc tế (Ramsar); 7 Vườn di sản ASEAN (AHP). Tính đến nay, Việt Nam có 9 khu được công nhận là khu Ramsar; 11 khu Dự trữ sinh quyển thế giới được UNESCO công nhận; 12 Vườn di sản ASEAN - đứng đầu khu vực; 1 vùng chim nước di cư quan trọng quốc tế tuyến đường bay Úc - Đông Á (EAAFP).  

Hệ sinh thái rừng đã được chú trọng phục hồi: Diện tích rừng ngày càng tăng lên. Nếu như năm 1995 (ngay sau khi Việt Nam gia nhập Công ước ĐDSH), độ che phủ rừng chỉ đạt 28,2% thì đến năm 2022, độ che phủ đã lên tới 42,02%. Đặc biệt, năm 2021, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Đề án “Trồng một tỷ cây xanh giai đoạn 2021 - 2025” nhằm góp phần bảo vệ môi trường sinh thái, cải thiện cảnh quan và ứng phó với biến đổi khí hậu, phát triển kinh tế xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống người dân và sự phát triển bền vững của đất nước.

 Bảo tồn các loài nguy cấp đang bị đe dọa tuyệt chủng: Các chương trình bảo tồn các loài nguy cấp, quý hiếm được ưu tiên bảo vệ (voi, hổ, linh trưởng, rùa) và các loài thuộc danh mục loài nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ đã được xây dựng và triển khai thực hiện. Thông qua việc ban hành và triển khai các kế hoạch, chương trình, dự án bảo tồn loài nguy cấp, một số quần thể loài nguy cấp đã dần được phục hồi trong tự nhiên các quần thể voọc cát bà, voọc mông trắng ở khu bảo tồn thiên nhiên Vân Long (Ninh Bình), voọc mũi hếch ở Khau Ca (Hà Giang)... Cá sấu xiêm được coi như đã tuyệt chủng ở Việt Nam vào những năm 2000 nhưng nhờ có chương trình phục hồi, hiện đã có gần 300 cá thể cá sấu xiêm sinh sống tại Vườn quốc gia Cát Tiên và quần thể này tiếp tục phát triển tốt.

Các loài thực vật nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ cũng được chú trọng nghiên cứu, bảo tồn, phục hồi và phát triển, điển hình là sâm ngọc linh, lan hài...

Trong năm 2022, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 04/CT-TTg, ngày 17/5/2022 của Thủ tướng Chính phủ về một số nhiệm vụ, giải pháp cấp bách để bảo tồn các loài chim hoang dã, di cư tại Việt Nam, nhằm bảo tồn các loài chim hoang dã, di cư tại Việt Nam cũng như thực hiện các cam kết Đối tác Đường bay chim nước di cư tuyến Úc - Đông Á (EAAFP), được đối tác quốc tế đánh giá rất cao. Thực hiện Chỉ thị của Thủ tướng, Bộ Tài nguyên và Môi trường, các địa phương và các đối tác, tổ chức quốc tế cũng đang triển khai các hành động cụ thể nhằm bảo vệ và phục hồi một số loài chim di cư nguy cấp và sinh cảnh của chúng như Sếu đầu đỏ...

Nguồn gen được thu thập, bảo tồn để phát triển bền vững, cơ chế tiếp cận nguồn gen, chia sẻ hợp lý lợi ích từ nguồn gen được thiết lập: Năm 2020, Việt Nam đã thu thập được tổng cộng 88.968 nguồn gen, tăng 3,12 lần so với năm 2010. Hiện nay, hơn 3.179 nguồn gen được chia sẻ phục vụ nghiên cứu và ứng dụng trong sản xuất.   

Việt Nam là một trong những quốc gia đi đầu trong tham gia Nghị định thư Nagoya về tiếp cận nguồn gen và chia sẻ lợi ích, đồng thời, đã ban hành Nghị định số 59/2017/NĐ-CP của Chính phủ về quản lý tiếp cận nguồn gen và chia sẻ lợi ích từ việc sử dụng nguồn gen quy định về quản lý hoạt động tiếp cận để sử dụng và chia sẻ lợi ích từ việc sử dụng nguồn gen thuộc chủ quyền của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Từ đó, tạo ra hành lang pháp lý cho phép việc tiếp cận nguồn gen phục vụ nghiên cứu không vì mục đích thương mại; nghiên cứu vì mục đích thương mại; phát triển sản phẩm thương mại... mở ra các tiềm năng sử dụng bền vững đa dạng sinh học.

Hồng Anh