Theo World Bank, nhu cầu trong nước dự kiến vẫn là động lực tăng trưởng chính, mặc dù tốc độ tăng chậm hơn so với năm ngoái. Lạm phát CPI bình quân trong năm ước đạt 3,5%, do dự kiến tăng lương công chức, sau đó giảm còn 3% trong năm 2024 và 2025 với giả định giá cả năng lượng và thương phẩm vẫn ổn định.
Cân đối ngân sách của Việt Nam dự kiến có bội chi ở mức 0,7% GDP trong năm 2023 khi chính sách tài khóa vẫn phần nào hỗ trợ cho nền kinh tế, nhưng Chính phủ sẽ quay lại vị thế tài khóa thận trọng hơn trong năm 2024, phù hợp với chiến lược phát triển ngành tài chính giai đoạn 2021-2030.
Tài khoản vãng lai dự kiến sẽ tiếp tục được cải thiện, nhờ xuất khẩu sẽ phục hồi ở mức khiêm tốn, số lượt du khách quốc tế tiếp tục phục hồi, và nguồn kiều hối vẫn đứng vững. Tỷ lệ nghèo (theo chuẩn nghèo cho quốc gia thu nhập trung bình thấp) được dự báo giảm từ 3,2% trong năm 2022 xuống còn 3% trong năm 2023.
Triển vọng nêu trên còn phụ thuộc vào một số rủi ro đang gia tăng.
Theo đó, tăng trưởng thấp hơn dự kiến ở các nền kinh tế phát triển và Trung Quốc có thể suy giảm nhu cầu bên ngoài về các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam. Chính sách tiền tệ bị thắt chặt hơn nữa ở các nền kinh tế lớn và phát triển có thể sẽ lại nhen nhóm gây áp lực tỷ giá cho đồng nội tệ, dẫn đến dòng vốn tháo chạy ra ngoài.
Cũng theo WB, trong ngắn hạn, chính sách tài khóa nên tiếp tục hỗ trợ cho tổng cầu. Ngân sách đầu tư được triển khai đầy đủ, kết hợp với các bước nhằm tháo gỡ ách tắc về thủ tục đầu tư công, là cách để nâng đầu tư công lên 7,1% GDP trong năm 2023, so với 5,5% trong năm 2023, qua đó sẽ hỗ trợ cho tổng cầu.
Chính sách tiền tệ tiếp tục nới lỏng được cho là phù hợp, nhưng tiếp tục cắt giảm lãi suất sẽ làm gia tăng chênh lệch lãi suất với các thị trường trên toàn cầu, có khả năng gây áp lực đến tỷ giá. Để giảm nhẹ rủi ro tài chính đang gia tăng, các biện pháp nâng cao tỷ lệ vốn của các ngân hàng và tăng cường khung giám sát ngân hàng là cách để đảm bảo ổn định và khả năng chống chịu của khu vực tài chính.
Theo WB, trong dài hạn, Việt Nam có tham vọng trở thành quốc gia thu nhập cao vào năm 2045. Để đạt được mục tiêu đó, Việt Nam cần nâng cao năng suất qua cải thiện các nền tảng căn bản của khu vực tài chính, xử lý những ách tắc về thể chế trong đầu tư công nhằm giải quyết vấn đề thiếu hụt hạ tầng, đồng thời tạo môi trường thuận lợi để khu vực tư nhân trong nước hoạt động hiệu quả hơn, bên cạnh việc xử lý những rủi ro về biến đổi khí hậu và bền vững môi trường.
Trong nửa đầu năm, tăng trưởng GDP theo giá so sánh giảm còn 3,7% do sức cầu bên ngoài suy giảm và nhu cầu trong nước yếu đi. Kim ngạch xuất khẩu giảm 12% so cùng kỳ năm trước. Tốc độ tăng trưởng tiêu dùng giảm từ 6,1% trong nửa đầu năm 2022 xuống còn 2,7% do lòng tin của người tiêu dùng yếu đi và tăng trưởng thu nhập khả dụng thực chững lại. Tăng trưởng đầu tư giảm từ 3,9% trong nửa đầu năm 2022 xuống còn 1,1% do đầu tư của tư nhân trong nước suy yếu trong khi đầu tư công tăng lên chỉ bù đắp được phần nào. Tăng trưởng của khu vực công nghiệp giảm còn 1,1%.
Theo WB, ở Việt Nam, việc giảm bớt các rào cản chính sách như hạn chế đối với sự gia nhập và quyền sở hữu của người nước ngoài trong các dịch vụ vận tải, tài chính và kinh doanh đã dẫn đến giá trị gia tăng trên mỗi lao động trong các lĩnh vực này tăng 2,9% hàng năm trong giai đoạn 2008-2016. Việc loại bỏ các rào cản như vậy cũng giúp năng suất lao động tăng 3,1% ở các doanh nghiệp sản xuất sử dụng các dịch vụ này, mang lại lợi ích đáng kể nhất cho các doanh nghiệp tư nhân vừa và nhỏ.
Sự kết hợp giữa cải cách dịch vụ và số hóa không chỉ tạo ra những cơ hội mới mà còn nâng cao năng lực của người dân để tận dụng những cơ hội này. Chuyên gia Kinh tế trưởng khu vực Đông Á và Thái Bình Dương của Ngân hàng Thế giới Aaditya Mattoo nhấn mạnh việc cải cách dịch vụ và số hóa có thể tạo ra một chu kỳ tích cực nhằm gia tăng cơ hội kinh tế và nâng cao năng lực con người, thúc đẩy sự phát triển trong khu vực.
Trong khu vực Đông Á và Thái Bình Dương, WB dự báo tăng trưởng ở các nước đang phát triển ở khu vực được dự báo sẽ duy trì ở mức cao là 5% vào năm 2023 nhưng sẽ giảm trong nửa cuối năm và được dự báo còn 4,5% trong năm 2024.
Tăng trưởng của Trung Quốc vào năm 2023 được dự đoán là 5,1% và ở các nước khác trong khu vực là 4,6%.