1. Anh hùng nào từng lấy thân mình lấp lỗ châu mai?

  • Lê Văn Tám
  • Lý Tự Trọng
  • Phan Đình Giót
  • Trần Phú
Chính xác

Anh hùng Phan Đình Giót sinh năm 1922 ở xã Cẩm Quan, huyện Cẩm Xuyên, Hà Tĩnh. Trong chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954, quân ta nổ súng tấn công Him Lam, anh hùng Phan Đình Giót cùng đồng đội quyết tâm tiêu diệt cứ điểm.

Mặc dù bị thương nặng nhưng với ý nghĩ cháy bỏng duy nhất là dập tắt hoả lực từ lô cốt của địch, anh Giót đã dùng hết sức còn lại nâng tiểu liên lên bắn mạnh vào lỗ châu mai và hét to: “Quyết hy sinh vì Đảng, vì dân”, rồi rướn người lấy đà lao cả tấm ngực thanh xuân vào bịt kín lỗ châu mai địch.

Hỏa điểm lợi hại nhất của quân Pháp bị dập tắt, toàn đơn vị ào ạt xông lên như vũ bão, tiêu diệt gọn cứ điểm Him Lam, giành thắng lợi trong trận đánh mở màn chiến dịch Điện Biên Phủ. Anh hùng Phan Đình Giót hy sinh ngày 13/3/1954 ở tuổi 34. Anh được nhận danh hiệu Anh hùng Lực lượng Vũ trang nhân dân năm 1955.

2. Ai từng lấy thân mình làm giá súng?

  • Tô Vĩnh Diện
  • Kim Đồng
  • Cù Chính Lan
  • Bế Văn Đàn
Chính xác

Anh hùng Bế Văn Đàn sinh năm 1931 ở xã Triệu Ẩu, huyện Phục Hòa, tỉnh Cao Bằng. Năm 1948, anh xung phong vào bộ đội giữa lúc cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đang diễn ra quyết liệt.

Trong chiến dịch Đông Xuân 1953 – 1954, anh được phân công làm liên lạc tiểu đoàn. Một đại đội của tiểu đoàn được giao nhiệm vụ bao vây giữ Pháp ở Mường Pồn. Cuộc chiến đấu diễn ra ngày càng căng thẳng và quyết liệt.

Quân Pháp phản kích lần thứ ba, mở đường tiến, đại đội bị thương vong nhiều, chỉ còn 17 người. Bản thân Bế Văn Đàn cũng bị thương, nhưng anh vẫn tiếp tục chiến đấu. Một khẩu trung liên của đơn vị không bắn được vì xạ thủ hy sinh. Khẩu trung liên của Chu Văn Pù cũng không bắn được vì không có chỗ đặt súng.

Trong tình thế hết sức khẩn trương, anh không ngần ngại chạy lại cầm hai chân khẩu trung liên đặt lên vai mình và hô đồng đội bắn. Pù còn do dự thì Bế Văn Đàn nói: “Kẻ thù trước mắt, đồng chí có thương tôi thì bắn chết chúng nó đi”.

Trong lúc lấy thân mình làm giá súng, anh bị thêm hai vết thương nữa và hy sinh, hai tay vẫn còn ghì chặt súng trên vai mình. Sự hy sinh của Bế Văn Đàn đã trở thành tấm gương tiểu biểu trong Quân đội nhân dân Việt Nam thời kỳ kháng chiến chống Pháp.

3. Ai là người lấy thân mình chèn pháo?

  • Lý Tự Trọng
  • Tô Vĩnh Diện
  • Nông Văn Dền
  • La Văn Cầu
Chính xác

Anh hùng Tô Vĩnh Diện sinh năm 1924, ở xã Nông Trường, huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa. Tháng 5/1953, quân đội ta thành lập các đơn vị pháo cao xạ để chuẩn bị đánh lớn. Tô Vĩnh Diện được điều về làm tiểu đội trưởng một đơn vị pháo cao xạ.

Trong một lần kéo pháo tới nơi tập kết, dây tời bị đứt khiến pháo lao nhanh xuống dốc, anh vẫn bình tĩnh giữ càng lái cho pháo thẳng đường. Nhưng một trong bốn dây kéo pháo lại bị đứt, pháo càng lao nhanh, đồng chí pháo thủ Lê Văn Chi bị hất văng ra.

Trong hoàn cảnh vô cùng khó khăn đó, Tô Vĩnh Diện hô anh em: “Thà hy sinh quyết bảo vệ pháo” và anh buông tay lái xông lên phía trước, lấy thân mình chèn vào bánh pháo, nhờ đó đồng đội kịp ghìm giữ pháo lại. Tấm gương hy sinh của anh đã cổ vũ mạnh mẽ toàn đơn vị vươn lên hoàn thành tốt nhiệm vụ và chiến đấu thắng lợi.

4. Ai là người chặt đứt cánh tay bị thương để tiến lên đánh địch?

  • Cù Chính Lan
  • La Văn Cầu
  • Lê Chiến
  • Lê Đính
Chính xác

Anh hùng La Văn Cầu sinh năm 1932 ở huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng. Tháng 9/1950, quân ta mở trận đánh cứ điểm Đông Khê. Chiến sĩ La Văn Cầu cùng đồng đội nhận nhiệm vụ phá hàng rào và lô cốt, mở đường cho quân ta tiến lên tiêu diệt quân địch.

Trong lúc làm nhiệm vụ, cánh tay phải và một bên má của ông đã trúng đạn. Thấy cánh tay lủng lẳng, ông quyết định nhờ đồng đội chặt đứt cánh tay bị thương để tiếp tục chiến đấu.

Chiến công của chiến sĩ trẻ La Văn Cầu khi ấy trở thành một tấm gương sáng. Năm 1952, ông được vinh dự là một trong 7 chiến sĩ đầu tiên được phong danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.

5. Ai là người dẫn đầu tiểu đội cắm cờ lên lô cốt Him Lam?

  • Nông Văn Dền
  • Trần Can
  • Lê Hài
  • Lê Đính
Chính xác

Anh hùng Trần Can sinh năm 1931 ở xã Sơn Thành, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An. Mở đầu cho chiến dịch Điện biên Phủ là trận đánh đồi Him Lam, anh được giao nhiệm vụ cắm lá cờ “quyết chiến, quyết thắng” của Chủ tịch Hồ Chí Minh giao cho quân đội, lên đồn Pháp.

Tiếng súng khai mở chiến dịch bắn ra, cho dù hỏa lực quân Pháp bắn ra dữ dội, anh vẫn dẫn đầu tiểu đội vượt qua lô cốt tiền duyên, xông thẳng vào sở chỉ huy rồi nhảy lên lô cốt cắm lá cờ. Sau đó, anh chỉ huy tiểu đội tiêu diệt những tên lính Pháp còn lại trong hầm, bắt sống 25 tên, tịch thu nhiều loại vũ khí.

Trong trận điểm cao 507, Trần Can dẫn đầu đồng đội áp đảo quân Pháp, chiếm trọn mỏm cờ, địch đánh trả dữ dội hòng chiếm lại. Ta và địch giành giật nhau từng tấc đất quyết không để mất. Cả 4 đợt phản kích của địch đều bị anh cùng đồng đội chống trả quyết liệt, giữ vững thế trận.

Địch mở đợt tấn công thứ 5, chúng ném lựu đạn tới tấp trước khi lao lên, anh cầm lựu đạn ném trả lại và chỉ huy anh em nhảy lên nhảy lên hào đánh giáp lá cà. Cán bộ đại đội bị thương vong, Trần Can cũng mang vết thương trên mình nhưng anh quyết tâm chỉ huy bộ đội chiến đấu suốt đêm.

Trần Can cùng đồng đội đánh tan mọi đợt tiến công của địch, một lòng giữ vững trận địa, tạo lợi thế cho quân ta tiến vào trung tâm Mường Thanh. Anh đã hy sinh anh dũng ngày 7/5/1954, ngày kết thúc chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ.