Tỉnh Bến Tre vừa ban hành Kế hoạch số 6639/KH-UBND về Chiến lược khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên, bảo vệ môi trường biển và hải đảo đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050.

  Kế hoạch nhằm mục tiêu đưa tỉnh Bến Tre trở thành một trong những tỉnh phát triển mạnh và bền vững về kinh tế biển, trọng tâm là phát triển năng lượng tái tạo, thủy sản, du lịch và từng bước hình thành văn hóa sinh thái biển, thích ứng với biến đổi khí hậu, đảm bảo môi trường biển, ngăn chặn tình trạng sạt lở bờ biển, bảo tồn và phát huy hệ sinh thái biển.

 

anh bai ben tre.jpg
 Bén Tre tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường biển

Xây dựng, kiện toàn hệ thống chính trị các địa phương ven biển vững mạnh, đảm bảo tổ chức thực hiện có hiệu quả các chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch về phát triển bền vững kinh tế biển, nhất là trong xây dựng nông thôn mới, xây dựng đô thị văn minh, góp phần phát triển bền vững kinh tế - xã hội vùng ven biển. Tập trung nghiên cứu và đề xuất các nội dung có liên quan đến phát triển bền vững kinh tế biển vào quá trình xây dựng Quy hoạch tỉnh Bến Tre thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050, đảm bảo sự gắn kết hài hòa, đồng bộ giữa bảo tồn và phát triển.

Trong đó, Bến Tre tập trung phát triển nuôi trồng thủy sản trên biển, khai thác thủy sản xa bờ, bảo tồn nguồn lợi thủy sản. Hoàn thiện cơ chế chính sách, đầu tư cơ sở hạ tầng, hỗ trợ doanh nghiệp, người dân trong sản xuất, nuôi trồng thủy hải sản. Đồng thời, ứng dụng khoa học công nghệ trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm thân thiện môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu, đẩy mạnh phát triển khai thác, đánh bắt hải sản xa bờ, phát triển đội tàu công suất lớn hướng tới đánh bắt xa bờ, trang bị thiết bị giám sát hành trình liên lạc để đảm bảo trong công tác quản lý và cứu hộ. Xây dựng, thiết lập cơ chế, chính sách quản lý khai thác thủy sản gắn với bảo vệ nguồn lợi thủy sản, bảo vệ môi trường biển.

Tỉnh tập trung phát triển nuôi thủy sản ứng dụng công nghệ cao, an toàn sinh học và thân thiện với môi trường, đến năm 2030, giá trị sản phẩm trên 1ha thủy sản đạt ​450 triệu đồng, diện tích nuôi thủy sản biển đạt 42.000ha, sản lượng đạt 136 ngàn tấn. Trong đó, diện tích vùng nuôi và sản xuất giống thủy sản ứng dụng công nghệ cao là 5.100ha, 100% diện tích nuôi tập trung thâm canh các đối tượng nuôi chủ lực đạt chứng nhận VietGAP hoặc chứng nhận tương đương.

Hoàn thiện, nâng cấp cơ sở dữ liệu và hệ thống giám sát tàu cá, kiểm soát phát triển tàu cá theo hạn ngạch giấy phép khai thác. Phát triển các làng nghề truyền thống theo hướng tập trung các dịch vụ về một mối, nâng cao chất lượng phục vụ của các cơ sở, cảng cá, khu neo đậu tránh trú bão, cơ sở sửa chữa đóng tàu cá, dịch vụ hậu cần.

 Phấn đấu đến năm 2025, tổng thu từ hoạt động du lịch trên địa bàn 3 huyện biển tăng bình quân 25%/năm; chiếm khoảng 20% doanh thu du lịch của cả tỉnh. Đến năm 2030, doanh thu từ du lịch 3 huyện biển chiếm từ 30% doanh thu du lịch của cả tỉnh. Khuyến khích, huy động nguồn lực xã hội cho đầu tư phát triển hạ tầng, dịch vụ du lịch 3 huyện ven biển. Phát triển nguồn nhân lực du lịch đáp ứng điều kiện thực tế tại địa phương, có chính sách, chương trình hỗ trợ người dân tại địa phương khi tham gia.

 Phát triển đa dạng các sản phẩm du lịch ven biển gắn với khai thác, bảo vệ và phát triển hệ sinh thái tự nhiên, di sản văn hóa, di tích lịch sử, văn hóa, tâm linh, xây dựng sản phẩm đặc thù, thương hiệu du lịch tạo sức hấp dẫn, độc đáo, đặc sắc riêng của tỉnh Bến Tre. Đồng thời, chú trọng yếu tố an ninh, quốc phòng, phát huy vai trò của cộng đồng, địa phương. Tăng cường ứng dụng công nghệ trong công tác quản lý và quảng bá hình ảnh du lịch tại địa phương. Khuyến khích các đơn vị, tổ chức, cá nhân hoạt động trong lĩnh vực năng lượng tái tạo, nông nghiệp công nghệ cao tham gia quảng bá du lịch, bảo vệ môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu.

Đặc biệt ưu tiên nguồn lực để đẩy mạnh các hoạt động, mô hình khai thác, sử dụng tài nguyên hiệu quả, thân thiện môi trường, hạn chế các hoạt động khai thác, sử dụng tài nguyên bằng các công nghệ lạc hậu, hiệu quả thấp, gây tổn hại đến tài nguyên, ô nhiễm môi trường, suy giảm đa dạng sinh học. 

Diệu Thúy và nhóm PV, BTV