Theo ông Mai Phan Dũng - Vụ trưởng Vụ Ngoại giao văn hóa và UNESCO, Bộ Ngoại giao, ngày nay, trong quan hệ quốc tế, bên cạnh sức mạnh cứng, các nước đều quan tâm củng cố và phát huy sức mạnh mềm, qua đó tạo sức mạnh tổng hợp của quốc gia mình.
Joseph S. Nye, chính trị gia, nhà nghiên cứu người Mỹ, định nghĩa rằng “quyền lực mềm là dùng khả năng giành được những thứ mình muốn thông qua việc gây ảnh hưởng để khiến người khác làm theo do sự hấp dẫn, thuyết phục chứ không phải do cưỡng bức, ép buộc”. Ông tổng kết rằng sức mạnh mềm của một quốc gia được tạo dựng trên 3 cơ sở: giá trị thể chế, chính sách đối nội, đối ngoại và giá trị văn hóa.
Đối với Việt Nam, sức mạnh mềm xuất phát từ những giá trị tự thân của đất nước như lịch sử, truyền thống, văn hóa, tư tưởng nhân văn, hệ thống quan niệm về nhân sinh quan, thế giới quan... và sự bồi đắp, quan tâm, phát huy thông qua chính sách của Đảng, Nhà nước cũng như ý thức, hành động của mỗi người dân Việt Nam ở cả trong và ngoài nước.
Nguồn tạo ra sức mạnh mềm của Việt Nam có một số đặc điểm nổi bật sau:
Trước tiên, do vị trí địa lý đặc biệt, Việt Nam được coi là cây cầu nối giữa phần lục địa Á, Âu với khu vực Đông Nam Á, Đông Bắc Á, là cửa ngõ giao thương giữa Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương. Nhưng cũng chính vì vị trí địa lý này khiến Việt Nam luôn phải gồng mình chống giặc ngoại xâm.
Thấu hiểu sự tàn khốc của chiến tranh, dân tộc Việt Nam càng coi trọng giá trị của hòa bình, luôn tìm cách cứu vãn hòa bình, tránh để chiến tranh xảy ra. Tuy nhiên, khi đứng trước kẻ thù lớn mạnh, dân tộc Việt Nam luôn thể hiện tinh thần đoàn kết, bất khuất. Sự sáng tạo trong nghệ thuật dụng binh và ngoại giao tài tình đã tạo nên những chiến thắng vẻ vang trong trang sử hào hùng của dân tộc.
Điều thú vị là sau những chiến thắng, dân tộc ta luôn độ lượng, khoan dung với kẻ bại trận, sau đó sẵn sàng kết giao hòa hiếu, gác lại quá khứ để hướng tới tương lai. Đây là lý tưởng cao quý mà thế giới ngày nay đang cùng nhau vươn tới.
Hai là, trong suốt quá trình lịch sử, cũng do vị trí địa lý là điểm kết nối “Bắc xuống Nam và Tây sang Đông” mà văn hóa Việt Nam có sự giao thoa và chịu ảnh hưởng của nhiều nền văn hóa lớn, trong đó có văn hóa Trung Hoa, Ấn Độ và phương Tây.
Tuy vậy, dân tộc Việt Nam vẫn bảo vệ, giữ gìn được bản sắc truyền thống, khéo léo tiếp thu chọn lọc, biến tinh hoa văn hóa bên ngoài phù hợp với văn hóa, phong tục, tín ngưỡng của mình, do vậy đã tránh được sự đồng hóa của các nền văn hóa lớn. Nho giáo, Khổng giáo, Phật giáo, Kito giáo, Hồi giáo... khi du nhập vào Việt Nam đã được tiếp biến, hướng con người suy nghĩ, hành động theo giá trị chân, thiện, mỹ.
Thứ ba, mặc dù lãnh thổ Việt Nam không quá lớn nhưng lại có nhiều địa hình, địa lý đa dạng, là nơi chung sống của 54 dân tộc anh em. Chính điều này đã tạo ra sự phong phú về ngôn ngữ, trang phục, ẩm thực, các loại hình biểu diễn nghệ thuật, sinh hoạt tín ngưỡng… Sự phong phú, đa dạng này đã tạo nên một bức tranh văn hóa đa sắc màu và đầy sức cuốn hút của dân tộc Việt Nam.
Thứ tư, với chiều dài lịch sử dựng nước, giữ nước và chinh phục, cải tạo thiên nhiên, dân tộc Việt Nam đã hoàn thiện hệ thống quan niệm, tư tưởng về nhân sinh quan, thế giới quan với những nét tiêu biểu là mối quan hệ hài hòa, tình yêu thương giữa con người với con người, giữa con người với thiên nhiên... Đó cũng chính là các nhân tố tạo dựng nên người Việt Nam hiện đại với những đức tính cần cù, sáng tạo, dung dị nhưng sâu sắc, yêu lao động, yêu thiên nhiên và ý thức bảo vệ môi trường.
Ngoại giao văn hóa là một trụ cột
Ngày nay, ngoại giao văn hóa được xác định là một trụ cột, cùng với ngoại giao chính trị, ngoại giao kinh tế và công tác về người Việt Nam ở nước ngoài, tạo nên nền ngoại giao Việt Nam toàn diện, hiện đại. Nội hàm, quan điểm, mục tiêu và các biện pháp của ngoại giao văn hóa được xác định rõ trong Chiến lược Ngoại giao văn hóa đến giai đoạn 2011-2020.
Hơn 10 năm qua, ngoại giao văn hóa được triển khai bài bản, rộng rãi cả trong nước và ngoài nước. Qua đó, thông tin, hình ảnh về đất nước, văn hóa, lịch sử, con người, chính sách của Việt Nam được quảng bá, phổ biến và lan tỏa rộng rãi, giúp nhân dân thế giới hiểu biết, thiện cảm, yêu mến, từ đó dẫn tới quyết định lựa chọn Việt Nam là điểm đến để hợp tác, đầu tư, du lịch, sử dụng những sản phẩm, dịch vụ mang thương hiệu Việt Nam… hay cao hơn là ủng hộ các quan điểm, đường lối, chính sách của Việt Nam.
Made in Vietnam trên trường quốc tế
Các thương hiệu “Made in Vietnam” hay “Made by Vietnam” ngày càng có vị trí trên trường quốc tế. Những hoạt động ngoại giao văn hóa đã góp phần quảng bá, đưa hình ảnh địa phương Việt Nam ngày càng gần gũi, thân thiện trong xu thế hội nhập, đồng thời các hoạt động ngoại giao văn hóa cũng là những cơ hội tốt để người dân trong nước tiếp xúc và hiểu hơn về nhiều nền văn hóa trên thế giới.
Ở nước ngoài, các cơ quan đại diện Việt Nam đã tích cực phối hợp với các đơn vị trong nước cũng như chính quyền, người dân sở tại tích cực, chủ động tổ chức nhiều hoạt động ngoại giao văn hóa với nội dung, hình thức đa dạng, sáng tạo, góp phần giới thiệu, quảng bá hiệu quả về đường lối, chính sách, tiềm năng, thế mạnh cũng như về lịch sử, văn hóa, đất nước, con người Việt Nam, chính sách của Nhà nước ta, qua đó góp phần làm sâu sắc quan hệ với các nước, nhất là các đối tác chiến lược.
Nổi bật trong các hoạt động ngoại giao văn hóa ở bên ngoài là việc giới thiệu, quảng bá các triết lý, tư tưởng của người Việt Nam thông qua nhiều hình thức tôn vinh các cá nhân tiêu biểu như danh nhân văn hóa Nguyễn Trãi, đại thi hào Nguyễn Du, nhà giáo Chu Văn An... và đặc biệt là Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Tính đến nay, Việt Nam đã có 39 danh hiệu được UNESCO ghi danh/công nhận trên tất cả các lĩnh vực chính gồm văn hóa, khoa học, giáo dục và thông tin. Việc có thêm các danh hiệu quốc tế ở Việt Nam đã làm giàu thêm kho tàng di sản văn hóa của nhân loại, là sự vinh danh, quảng bá lớn lao cho các giá trị văn hóa của dân tộc ta, làm cho bạn bè quốc tế biết tới Việt Nam nhiều hơn đồng thời đã tạo ra nguồn lực trực tiếp cho phát triển bền vững ở nhiều địa phương của Việt Nam.
Ngoài ra, các hoạt động ngoại giao văn hóa còn được các cơ quan, tổ chức, cá nhân, tích cực triển khai thông qua hàng loạt các chương trình, sự kiện.
Ngày nay, những người yêu mến Việt Nam đều biết đến ẩm thực Việt Nam qua những món ăn như phở, nem...; Thủ công mỹ nghệ với tranh sơn mài, tranh đông hồ, đồ gốm sứ, áo dài, nón lá...; Sản phẩm nông sản như gạo, chè, cà phê...; Các môn võ thuật như cổ truyền, Vovinam...; nghệ thuật biểu diễn như nhã nhạc, cồng chiêng, quan họ, ca trù, hát xoan, đờn ca tài tử, dân ca ví, giặm, bài chòi, hát then, múa rối…; Các công trình văn hóa như Hoàng thành Thăng Long, cố đô Huế, thành Nhà Hồ, thánh địa Mỹ Sơn...
Trong thời gian tới, công tác ngoại giao văn hóa sẽ tiếp tục tập trung gắn kết với nhiệm vụ lớn, đóng góp cho môi trường hòa bình ổn định, tranh thủ tối đa các điều kiện quốc tế thuận lợi để phát triển đất nước nhanh và bền vững; quảng bá hình ảnh Việt Nam; bảo tồn và phát huy bản sắc dân tộc; tăng cường sức mạnh tổng hợp quốc gia; nâng cao vị thế, uy tín quốc tế của đất nước; đồng thời góp phần tích cực vào sự nghiệp vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.
Hằng Nga (lược ghi)