Chia sẻ tại hội thảo tái cơ cấu kinh tế mới đây, ông Lê Tiến Trường, Chủ tịch Tập đoàn Dệt may Việt Nam (Vinatex) đã đưa ra nhiều phân tích về vai trò quan trọng của ngành dệt may cũng như những thách thức đặt ra trong tương lai, nhất là trong bối cảnh Việt Nam đã ký kết 15 Hiệp định Thương mại Tự do FTA. Đặc biệt, vai trò của việc đầu tư nguyên phụ liệu, công nghiệp hỗ trợ cho dệt may là yếu tố quyết định để tăng nội lực và sức cạnh tranh của ngành.

Ông cho biết, với lĩnh vực dệt may, quan niệm cho đây là một ngành giá trị gia tăng thấp, sử dụng nhiều lao động nhưng thu nhập cũng thấp là chưa chính xác. Nó mới chỉ xuất phát từ cách làm của chúng ta, chứ không phải là bức tranh chung của dệt may thế giới. 

Trên thực tế hiện nay, ngành dệt may vẫn tồn tại tại các nước phát triển thu nhập gấp 10-15 lần Việt nam như Pháp, Ý, Đức… cho các phân khúc cao cấp, hàng hiệu. Nhưng tương đồng với Việt nam là các quốc gia sản xuất quy mô lớn như Trung Quốc, Ấn Độ thì dệt may vẫn được xác định là ngành kinh tế trọng điểm.

Kế hoạch 5 năm lần thứ 14 của Trung Quốc ban hành tháng 4-2021 tiếp tục có mục tiêu trọng tâm cho ngành dệt may dù GDP đầu người Trung quốc đã vượt mức 10,000USD/người. Trung Quốc vẫn xác định ngành dệt may thế giới có quy mô tới 1800 tỷ USD trong đó có 800 tỷ USD thông qua xuất nhập khẩu từ các nước sản xuất vào các nước tiêu thụ. Xu hướng dịch chuyển làm tăng kim ngạch xuất nhập khẩu vẫn diễn ra làm quy mô cầu của ngành này với các nước sản xuất có tốc độ tăng CAGR ~6-7% là mức tốt trong các ngành sản xuất.

Trung Quốc đặt mục tiêu đến 2030 cung ứng tới 40% nhu cầu ngành dệt may thế giới với KNXK khoảng 300 tỷ USD, tuy nhiên có dịch chuyển giảm tỷ trọng hàng may mặc từ 39% xuống khoảng 33%, tăng hàng dệt công nghiệp từ 30%-35% tổng lượng xuất khẩu dệt may của Trung quốc. Đặt ra nhiều mục tiêu xanh hoá ngành dệt may như tỷ lệ sử dụng nguyên liệu tái chế sẽ chiếm 15-30% tổng lượng sử dụng, trong khi năng lượng sử dụng giảm 18%. Đặt mục tiêu số doanh nghiệp quy mô trên 1.5 tỷ USD doanh thu 1 năm lên 50 công ty.

Ngành dệt may vẫn có nhiệm vụ tạo việc làm và thu nhập tương đương GDP đầu người tức là trên 12.000 USD/năm hiện nay và lên xấp xỉ 18.000USD/năm vào năm 2030 cho khoảng 15 triệu lao động.

Như vậy có thể kết luận, với GDP đầu người đến 2030 phấn đấu đạt 7500 USD, đến 2045 khoảng trên 12.000USD thì ngay cả đến 2045 dệt may cũng chưa phải là đã hết lợi thế cạnh tranh trong sản xuất từ Việt Nam. Do đó, chưa cần bị loại bỏ ra khỏi cơ cấu kinh tế, nhưng cần đổi mới triệt để cách làm đảm bảo 3 trụ cột kinh tế - an sinh - môi trường. 

Với thực tế của Việt Nam hiện nay, chúng ta khó hình thành những sản phẩm đột phá về công nghệ so với thế giới nhưng chúng ta lại đang ở thời kỳ dân số vàng. Vì vậy, không thể coi nhẹ ngành công nghiệp dệt may mà phải coi đây là ngành quan trọng trong vòng vài chục năm tới vì sử dụng được số lượng lớn lực lượng lao động tay nghề đào tạo ngắn hạn (dưới 3 tháng) nhưng lại có thu nhập cao hơn 2-3 lần lao động nông nghiệp.

Vấn đề là phải tập trung đầu tư xây dựng công nghiệp dệt may đáp ứng được yêu cầu cao của các hiệp định thương mại tự do mới là đi từ sợi để từng bước tham gia được cả vào 4 công đoạn: thiết kế - sản xuất nguyên liệu - gia công - phân phối của ngành công nghiệp dệt - may trong vòng 20-30 năm tới, giúp giải quyết được việc làm cho một số lượng lớn lao động nông nghiệp chuyển đổi nghề. Do vậy, phải gắn phát triển công nghiệp dệt - may với quá trình công nghiệp hóa nông nghiệp nông thôn, gắn với quá trình đô thị hóa nông thôn Việt Nam. 

Hiện tại dệt may Việt Nam đang sử dụng khoảng 2,5 triệu lao động trên cả nước, tạo ra KNXK 40 tỷ USD, thặng dư thương mại (kim ngạch XK trừ đi KN nhập khẩu nguyên phụ liệu cho dệt may) đạt gần 20 tỷ USD là ngành có thặng dư cao nhất trong các ngành xuất khẩu do có tỷ lệ nội địa hoá khả quan nhất.

Đồng thời đang chi trả thu nhập cho NLĐ khoảng 3800USD/người/năm. Với mục tiêu khả thi có thể đạt KNXK khoảng 70 tỷ USD đến năm 2030, ngành dệt may hoàn toàn có thể sử dụng khoảng 4 triệu lao động trực tiếp (tăng 1.5 triệu so với hiện nay) và tạo việc làm cho 1.5 triệu lao động dịch vụ phục vụ ngành. Cùng với tỷ lệ hưu trí tự nhiên 5% /năm. Mỗi năm ngành có thể tạo việc làm cho 250.000-300.000 việc làm mới. 

Để  đạt được mục tiêu này trước hết cần thay đổi tư duy về ngành dệt may của đất nước lớn thứ 2 về xuất khẩu dệt may trên thế giới. Do đó không thể sản xuất phân tán, vụn vặt, quy mô nhỏ, không có ngành sản xuất nguyên liệu và ngành nghiên cứu phát triển về vật liệu, thiết kế.

Kinh nghiệm từ quy hoạch dệt may của 2 quốc gia lớn nhất thế giới là Trung Quốc và Ấn Độ thì nhà nước đều có đầu tư các khu tập trung lớn quy mô hàng ngàn hec ta cho sản xuất nguyên liệu và khoảng 20% nguyên liệu được làm đến khâu may tại KCN.

Xác thực vai trò của 1 điểm đến cung ứng trọn gói giải pháp cho người mua hàng hoá dệt may toàn cầu. Tại Trung quốc, có những địa phương cấp huyện được quy hoạch chiến lược chuyên sản xuất vải như tại Thiệu Hưng - Chiết Giang với quy mô KNXK của huyện lên trên 25 tỷ USD/năm, có lợi thế cạnh tranh lớn về quy mô, giao hàng nhanh, giao được trọn gói các loại mặt hàng và kích cỡ đơn hàng từ nhỏ đến lớn.

Chính nhờ các trung tâm này mà hiện nay xuất khẩu dệt may của Trung quốc trên 300 tỷ USD thì hàng may mặc chỉ còn khoảng 140 tỷ USD, còn lại là nguyên liệu công nghiệp, kể cả ngành sản xuất thiết bị dệt may cũng được tích hợp chung vào chiến lược phát triển dệt may.

Với cách tiếp cận đó, ít nhất Việt nam cần 8 - 10 khu công nghiệp quy mô trên 1.000ha cho dệt may với 1 ở Trung du Bắc bộ, 2 Đồng bằng Nam sông Hồng, 1 Bắc Trung bộ, 2 ở Trung bộ và Nam trung bộ, 2 ở Nam bộ. Các khu CN cần có điều kiện tiếp cận giao thông thuận tiện với cảng biển, có quy hoạch để xây dựng KTX cho công nhân.

Mỗi khu công nghiệp sẽ có module đầu tư từ 1 triệu - 1.5 triệu cọc sợi, khả năng sản xuất 150 triệu mét vải dệt thoi, 60.000 tấn dệt kim, và khoảng 250 triệu sản phẩm may. Toàn khu đạt KNXK từ 2,3-2,5 tỷ USD, thu hút 25-30.000 lao động. Các khu tập trung chủ yếu sản xuất nguyên liệu nên sử dụng ít lao động, kim ngạch xuất khẩu trên đầu người cao gấp 3-4 lần hiện nay (hiện nay 40-50.000 lao động mới tạo ra 1 tỷ USD kim ngạch xuất khẩu nếu chỉ dựa vào khâu may)

Dệt may cùng các ngành thâm dụng lao động  đảm bảo hài hòa phát triển kinh tế xã hội theo mô hình tam giác phát triển: kinh tế - môi trường sống - an sinh phúc lợi xã hội. Trong đó chú trọng việc quy hoạch hạ tầng cho lao động sống ổn định cả về văn hoá - tinh thần - giáo dục. 

Trong quá trình phát triển kinh tế, tất yếu là chúng ta phải có tác động vào hệ cân bằng sinh thái - môi trường sống của con người. Vấn đề là sau đó chúng ta ứng xử thế nào. Với dệt may, hiện nay vấn đề các địa phương lo ngại là nước thải khi sản xuất vải, tuy nhiên không thể tiếp cận theo hướng có rủi ro thì không cho làm, mà nên quản trị rủi ro theo pháp luật. Có quy định, có đánh giá cấp phép hoạt động và sẵn sàng đóng cửa nếu vi phạm về mô trường. Đảm bảo công bằng trong cạnh tranh giữa doanh nghiệp tuân thủ và doanh nghiệp vi phạm

Do đó, các doanh nghiệp muốn tồn tại và tiếp tục phát triển phải luôn thay đổi, làm mới mình bằng cách xác lập vị trí, vị thế của mình trên thị trường quốc tế.

Hoàng Hiệp (ghi)