Tại Việt Nam, giai đoạn từ 2016 - 2020, cả nước xảy ra khoảng 1.300 vụ buôn bán người, do hơn 1.700 đối tượng thực hiện khiến khoảng 3.000 người trở thành nạn nhân, họ là những người chủ yếu sinh sống ở khu vực các tỉnh biên giới.

Các đối tượng buôn người thường là những người có tiền án, tiền sự, là người nước ngoài thông qua các công ty môi giới vào Việt Nam hoạt động kinh doanh, sau đó lợi dụng sơ hở và hình thành đường dây mua bán người xuyên quốc gia.

Ngoài ra, các đối tượng khác gồm những người từng là nạn nhân, người lấy chồng nước ngoài khi trở về thăm nhà đã dụ dỗ và lừa bán phụ nữ, trẻ em trong khu vực, thậm chí là người thân trong gia đình; những người lợi dụng việc buôn bán, kinh doanh dịch vụ dọc biên giới…

Các đối tượng này thường nhắm đến những người ở khu vực nông thôn, miền núi, nhất là vùng sâu, vùng xa, đa phần có hoàn cảnh kinh tế khó khăn, không có việc làm, thiếu hiểu biết xã hội và kỹ năng sống, nhẹ dạ cả tin; hoặc một số người trẻ thích hưởng thụ, ăn chơi, đua đòi, nên dễ theo lời hứa hẹn của đối tượng về việc làm ổn định, thu nhập cao hoặc lấy chồng nước ngoài khá giả, dẫn đến bị lừa bán.

{keywords}
Cơ quan chức năng đưa nạn nhân bị mua bán người về Nghệ An sau hơn 1 năm bị bán ra nước ngoài

Qua điều tra và phát hiện, những khoản lợi nhuận khổng lồ phía sau mỗi vụ buôn người, sự mất cân bằng về giới, sự phân hóa giàu nghèo, thiếu việc làm, thiếu hiểu biết là một trong những nguyên nhân khiến một bộ phận người dân, nhất là phụ nữ, trẻ em trở thành “món mồi béo bở” cho những kẻ buôn người.

Các đối tượng còn lợi dụng sự bất cập, sơ hở trong công tác quản lý nhà nước, quản lý xã hội ở một số lĩnh vực như người nước ngoài, hộ khẩu, biên giới, xuất nhập cảnh, hôn nhân và con nuôi có yếu tố nước ngoài. Việc giáo dục đạo đức và truyền thống văn hóa, dân tộc ở phạm vi gia đình cũng như toàn xã hội chưa được coi trọng, làm cho một bộ phận dân cư sa vào lối sống vật chất, bất chấp pháp luật.

Đặc biệt, thủ đoạn lừa bán của các đối tượng này ngày càng tinh vi xảo quyệt, hình thành các đường dây, băng nhóm tội phạm xuyên quốc gia gây khó khăn cho công tác điều tra và giải cứu nạn nhân.

Hỗ trợ giúp nạn nhân nhanh chóng tái hòa nhập cộng đồng

Tính từ giai đoạn 2016 - 2020, các đơn vị chức năng đã xác minh, giải cứu và tiếp nhận khoảng 2.000 trường hợp là nạn nhân bị mua bán. Các nạn nhân tập trung tại một số tỉnh như Lào Cai, Hà Giang, Quảng Ninh, Nghệ An, Lạng Sơn, Lai Châu, Sơn La, Nam Định, Thừa Thiên Huế, Hậu Giang, Vĩnh Phúc, An Giang, Kiên Giang…

Trong đó, 100% nạn nhân bị mua bán sau khi tiếp nhận được lực lượng công an, bộ đội biên phòng, chính quyền địa phương phối hợp bảo vệ, tổ chức bàn giao, cung cấp thông tin và thực hiện dịch vụ hỗ trợ giúp nhanh chóng tái hòa nhập cộng đồng.

Để kịp thời giúp các nạn nhân sớm tái hòa nhập cộng đồng, các địa phương đã thông qua nhiều hình thức khác nhau hỗ trợ nạn nhân và bước đầu đạt được hiệu quả tích cực.

Trong đó, hầu hết các trường hợp nạn nhân trở về chính thức, tự trở về hoặc được giải cứu ngay lập tức đều được cung cấp nơi ăn nghỉ tạm thời, tư vấn tâm lý xã hội, các trường hợp ốm đau, sức khỏe yếu được hỗ trợ chữa trị ban đầu, trợ cấp tiền tàu xe, tiền ăn khi trở về gia đình…

Trở về địa phương, họ được hỗ trợ pháp lý như làm thủ tục hộ khẩu, cấp chứng minh thư nhân dân, giấy khai sinh, hỗ trợ học nghề, việc làm, học văn hóa và được bảo vệ khi tố giác tội phạm.

Tại một số địa phương như Lào Cai, Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Cần Thơ, An Giang, thông qua các các dự án đã có các trung tâm, nhà tạm lánh dành cho những nạn nhân vừa bị mua bán trở về.

Tại đây, họ được cung cấp nơi ăn nghỉ, tư vấn tâm lý xã hội và được tiếp cận với các dịch vụ ngoài trung tâm để học văn hóa, học nghề và khám chữa bệnh theo nhu cầu và khả năng của đối tượng. Nhờ vậy, các nạn nhân sau khi trở về đạt tỷ lệ cao về hòa nhập cộng đồng.

Ngoài ra, các địa phương thông qua các hoạt động lồng ghép, phòng ngừa và tái hòa nhập cộng đồng để tổ chức các lớp dạy nghề cho phụ nữ, trẻ em thuộc diện hộ nghèo, hỗ trợ tạo việc làm để có mức thu nhập ổn định; hỗ trợ vay tín dụng, cấp phát học phí, học bổng gắn với các hoạt động truyền thông, nâng cao nhận thức về phòng, chống mua bán người.

Không chỉ vậy, các nạn nhân vừa bị bán trở về còn được các dự án quốc tế hỗ trợ về kinh phí và kỹ thuật tổ chức các mô hình có tính hiệu quả và thực tiễn cao.

Trong đó, phải kể đến các mô hình như “Nhóm tự lực” tại Thanh Hóa, Bắc Giang, Tây Ninh, Thừa Thiên Huế, Quảng Bình; mô hình “Kết hợp hỗ trợ nạn nhân bị mua bán với phòng, chống mại dâm, phòng ngừa lây nhiễm HIV/AIDS” tại Hải Phòng và mô hình “Phòng ngừa phụ nữ có nguy cơ dẫn đến hoạt động mại dâm và dự phòng lây nhiễm HIV” tại Đà Nẵng…

Như vậy, các dự án trên đã giúp các nạn nhân có hoàn cảnh khó khăn được tiếp cận các hỗ trợ hòa nhập cộng đồng bền vững, thông qua việc sử dụng đồng vốn sinh kế hiệu quả. Từ đó, giúp họ có thu nhập và ổn định cuộc sống.

Xuân Quý