Bình luận về Luật biển Việt Nam, trong một bài viết thấu đáo, PGS.TS. Nguyễn Hồng Thao đã đánh giá: So với các Tuyên bố của Chính phủ năm 1977 và 1982, Luật biển quy định rõ ràng và đầy đủ hơn về các vùng biển phù hợp với CULB 1982. Ông Nguyễn Hồng Thao phân tích:
Đường cơ sở
Tất cả các vùng biển đều được tính từ hệ thống đường cơ sở. Nội dung này liên quan trực tiếp đến chủ quyền đối với biên giới, lãnh thổ quốc gia thuộc thẩm quyền quyết định của Quốc hội. Luật giao Ủy ban thường vụ Quốc hội thực hiện việc phê chuẩn đường cơ sở do Chính phủ xác định trước khi công bố đối với những nơi chưa có đường cơ sở như Vịnh Bắc Bộ, vùng biển Việt Nam - Campuchia và các vùng biển của các đảo thuộc quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là phù hợp với các quy định của Hiến pháp và pháp luật hiện hành. Điều 8 tiếp tục khẳng định hiệu lực hệ thống đường cơ sở thẳng đã được Chính phủ công bố trong Tuyên bố năm 1982.
Vịnh Bắc Bộ đã được phân định bằng Hiệp định phân định lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa giữa Việt Nam và Trung Quốc ngày 25/12/2000. Khu vực này có thể sớm được xác định đường cơ sở. Đối với các khu vực khác, liên quan đến các tranh chấp chủ quyền và vùng biển chồng lấn, đường cơ sở sẽ được xác định sau. Trong khi thiên về việc sử dụng các đường cơ sở thẳng, Việt Nam vẫn để ngỏ khả năng có thể sử dụng hệ thống đường cơ sở thẳng thông thường hoặc hỗn hợp ở các vùng chưa quy định đường cơ sở.
Nội thủy và lãnh hải
Các vùng biển thuộc chủ quyền quốc gia là nội thủy và lãnh hải. Nhà nước thực hiện chủ quyền hoàn toàn, tuyệt đối và đầy đủ đối với nội thủy như trên lãnh thổ đất liền (Điều 10). Lãnh hải được xác định là vùng biển rộng 12 hải lý tính từ đường cơ sở và ranh giới ngoài của lãnh hải chính là đường biên giới quốc gia trên biển (Điều 11). Tuy nhiên đường biên giới biển có chế độ pháp lý không hoàn toàn giống như biên giới đất liền. Tôn trọng, không vi phạm đường biên giới quốc gia là một nguyên tắc cơ bản đối với biên giới đất liền.
Biên giới quốc gia trên biển đánh dấu sự chấm dứt chủ quyền của quốc gia ven biển trên vùng đáy biển, lòng đất dưới đáy biển và vùng trời quốc gia, song không phải là tuyệt đối với quyền sử dụng mặt nước vào mục đích đi lại. Nhà nước thực hiện chủ quyền đầy đủ và toàn vẹn đối với lãnh hải và vùng trời, đáy biển và lòng đất dưới đáy biển của lãnh hải phù hợp với CƯLB. Nhà nước bảo đảm quyền đi qua không gây hại của tàu thuyền nước ngoài trong lãnh hải Việt Nam. Việc đi qua không gây hại của tàu thuyền nước ngoài phải được thực hiện trên cơ sở tôn trọng hòa bình, độc lập, chủ quyền, pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là thành viên.
Mặc dù CƯLB không có điều khoản nào phân biệt tàu thuyền thực hiện quyền đi qua không gây hại trong lãnh hải, song trong thực tiễn giải thích và áp dụng CƯLB, vẫn có cách quy định đối với tàu quân sự nước ngoài. Đa số quy định, tàu quân sự nước ngoài được hưởng quyền đi qua không gây hại trong lãnh hải như các tàu thuyền khác. Nhưng một số nước đòi hỏi tàu quân sự nước ngoài khi thực hiện quyền đi qua không gây hại trong lãnh hải thì phải thông báo. Việt Nam ủng hộ lập trường của nhóm nước này. Điều 12.2 quy định, tàu quân sự nước ngoài khi thực hiện quyền đi qua không gây hại trong lãnh hải Việt Nam phải thông báo trước cho cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam.
Mục đích của việc thông báo chủ yếu là nhằm bảo đảm an toàn hàng hải cho tàu thuyền di chuyển trong lãnh hải Việt Nam và cũng tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam trong việc quản lý, theo dõi các vùng biển. Đây là một bước đơn giản hóa thủ tục so với Nghị định 30-CP ngày 29/1/1980 của Chính phủ quy định tàu quân sự nước ngoài khi đi vào vùng tiếp giáp lãnh hải Việt Nam phải xin phép.
Đối với tàu quân sự xin phép vào thăm (trừ tàu thăm chính thức) vẫn thực hiện qua đường ngoại giao chậm nhất là 30 ngày trước ngày dự kiến đi vào cảng theo Nghị định 55/CP ngày 1/10/1996 của Chính phủ về hoạt động của tàu quân sự nước ngoài vào thăm Cộng hoà XHCN Việt Nam vẫn còn hiệu lực: Sau khi được phép vào thăm, 48 giờ trước khi đi vào lãnh hải Việt Nam, thuyền trưởng tàu quân sự nước ngoài phải thông báo cho Bộ Quốc phòng (Cục Đối ngoại) để tổ chức đón tiếp. Quy định này phù hợp với Luật biển 2012.
Vùng tiếp giáp lãnh hải
Là vùng biển tiếp liền và nằm ngoài lãnh hải Việt Nam, có chiều rộng 12 hải lý tính từ ranh giới ngoài của lãnh hải (Điều 13). Việt Nam coi vùng tiếp giáp lãnh hải là một bộ phận của vùng đặc quyền kinh tế, có chế độ pháp lý như vùng đặc quyền kinh tế (Điều 16 và Điều 14.1).
Ngoài ra, Nhà nước thực hiện kiểm soát trong vùng tiếp giáp lãnh hải nhằm ngăn ngừa và trừng trị hành vi vi phạm pháp luật về hải quan, thuế, y tế, xuất nhập cảnh xảy ra trên lãnh thổ hoặc trong lãnh hải Việt Nam. Luật không quy định gì về quyền chủ quyền đối với các hiện vật mang tính khảo cổ và lịch sử tìm thấy trong vùng tiếp giáp lãnh hải như Điều 303 của CƯLB. Điều 12.5 chỉ quy định, Nhà nước có chủ quyền đối với mọi loại hiện vật khảo cổ, lịch sử trong lãnh hải Việt Nam. Các hiện vật mang tính khảo cổ và lịch sử này được Luật Di sản Văn hóa năm 2001 (sửa đổi năm 2009) coi là di sản văn hóa.
Điều 6 Luật Di sản văn hóa quy định, mọi di sản văn hóa ở trong lòng đất thuộc đất liền, hải đảo, ở vùng nội thủy, lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam đều thuộc sở hữu toàn dân. Quy định này rộng hơn Điều 303 của CƯLB, song Luật biển 2012 lại thu hẹp hơn quyền của quốc gia đối với các hiện vật khảo cổ và lịch sử khi không có quy định về các hiện vật này tìm thấy trên đáy biển vùng tiếp giáp lãnh hải.
Việt Nam cũng chưa tham gia Công ước Bảo vệ các di sản văn hóa dưới nước (Convention on the Protection of Underwater Cultural Heritage) của UNESCO, ký năm 2001. Công ước này quy định: quốc gia ven biển khi phát hiện hiện vật phải thông báo với các quốc gia có mối liên quan ("with a verifiable link") với hiện vật và các quốc gia có mối liên quan này có thể tuyên bố với các quốc gia ven biển là mình quan tâm đến việc bảo tồn các hiện vật nằm trong vùng đặc quyền kinh tế hoặc thềm lục địa của quốc gia ven biển.
Luật biển 2012 cũng phù hợp với luật hàng hải quốc tế hơn khi bỏ quy định giành quyền ưu tiên cứu hộ trong vùng tiếp giáp lãnh hải của Nghị định 30-CP. Điều 33 quy định: trong nội thủy, lãnh hải Việt Nam, Nhà nước có đặc quyền trong việc thực hiện các hoạt động tìm kiếm, cứu nạn, cứu hộ người và tàu thuyền gặp nạn hoặc nguy hiểm cần sự cứu giúp.
Vùng đặc quyền kinh tế
Là vùng biển tiếp liền và nằm ngoài lãnh hải Việt Nam, hợp với lãnh hải thành một vùng biển có chiều rộng 200 hải lý tính từ đường cơ sở (Điều 15). Như vậy, vùng biển có chế độ pháp lý của vùng đặc quyền kinh tế thực chất rộng 188 hải lý tính từ ranh giới ngoài của lãnh hải. Chế độ pháp lý của vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam hoàn toàn phù hợp với Điều 55 của CƯLB. Việt Nam thực hiện: a) Quyền chủ quyền về việc thăm dò, khai thác, quản lý và bảo tồn tài nguyên thuộc vùng nước bên trên đáy biển, đáy biển và lòng đất dưới đáy biển; về các hoạt động khác nhằm thăm dò, khai thác vùng này vì mục đích kinh tế; b) Quyền tài phán quốc gia về lắp đặt và sử dụng đảo nhân tạo, thiết bị và công trình trên biển; nghiên cứu khoa học biển, bảo vệ và gìn giữ môi trường biển; c) Các quyền và nghĩa vụ khác phù hợp với pháp luật quốc tế.
Luật biển 2012 không quy định về quyền của các quốc gia khác được tham gia vào khai thác số dư của khối lượng cho phép đánh bắt theo công thức Điều 62 CƯLB 1982. Trên thực tế, tài nguyên sinh vật ở Biển Đông đã bị khai thác đánh bắt quá mức. CƯLB 1982 quy định cho quốc gia ven biển nếu thấy cần thiết có thể sử dụng thẩm quyền không chia sẻ và có nghĩa vụ thi hành các biện pháp thích hợp về bảo tồn và quản lý nhằm làm cho việc duy trì các nguồn lợi sinh vật trong vùng đặc quyền về kinh tế của mình khỏi bị ảnh hưởng do khai thác quá mức.
Nhà nước tôn trọng quyền tự do hàng hải, hàng không; quyền đặt dây cáp, ống dẫn ngầm và hoạt động sử dụng biển hợp pháp của các quốc gia khác trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam theo quy định của Luật biển 2012 và Điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là thành viên, không làm phương hại đến quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia và lợi ích quốc gia trên biển của Việt Nam.
Điểm mới là Luật biển 2012 quy định: việc lắp đặt dây cáp và ống dẫn ngầm phải có sự chấp thuận bằng văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam. Điều này xuất phát từ thực tiễn quản lý và hoàn toàn phù hợp với cách giải thích CƯLB: việc khảo sát, thiết kế và xây dựng tuyến cáp và ống dẫn ngầm liên quan đến quyền tài phán về nghiên cứu khoa học biển và bảo vệ môi trường biển của quốc gia ven biển. Trong khi thực hiện quyền tự do đặt dây cáp và ống dẫn ngầm của mình, các quốc gia khác phải tôn trọng các quyền tài phán trên của quốc gia ven biển. Không có một sự tự do tuyệt đối mà chỉ là tự do trong khuôn khổ tôn trọng quyền lợi của các bên.
Thềm lục địa
Các quy định về thềm lục địa Việt Nam trong Luật biển 2012 có tiến bộ hơn hẳn Tuyên bố các vùng biển năm 1977 và phù hợp với CƯLB. Điều 17 quy định 3 loại thềm lục địa theo CƯLB: a) Thềm lục địa là vùng đáy biển và lòng đất dưới đáy biển, tiếp liền và nằm ngoài lãnh hải Việt Nam, trên toàn bộ phần kéo dài tự nhiên của lãnh thổ đất liền, các đảo và quần đảo của Việt Nam cho đến mép ngoài của rìa lục địa; b) Trong trường hợp mép ngoài của rìa lục địa này cách đường cơ sở chưa đủ 200 hải lý thì thềm lục địa nơi đó được kéo dài đến 200 hải lý tính từ đường cơ sở; c)
Trong trường hợp mép ngoài của rìa lục địa này vượt quá 200 hải lý tính từ đường cơ sở thì thềm lục địa nơi đó được kéo dài không quá 350 hải lý tính từ đường cơ sở hoặc không quá 100 hải lý tính từ đường đẳng sâu 2.500 mét. Khi xây dựng hồ sơ ranh giới ngoài thềm lục địa cùng Malaysia trình Ủy ban Ranh giới thềm lục địa của Liên hiệp quốc tháng 5/2009, Việt Nam đã áp dụng đúng quy định này. Điều 18 quy định rõ ràng chế độ pháp lý của thềm lục địa: Nhà nước thực hiện quyền chủ quyền đối với thềm lục địa về thăm dò, khai thác tài nguyên.
Quyền chủ quyền này có tính chất đặc quyền, tức là không ai có quyền tiến hành hoạt động thăm dò thềm lục địa hoặc khai thác tài nguyên của thềm lục địa nếu không có sựđồng ý của Chính phủ Việt Nam. Nhà nước có quyền khai thác lòng đất dưới đáy biển,cho phép và quy định việc khoan nhằm bất kỳ mục đích nào ở thềm lục địa. Việt Nam cũng khuyến khích các tổ chức, cá nhân nước ngoài tham gia thăm dò, sử dụng, khai thác tài nguyên, nghiên cứu khoa học, lắp đặt thiết bị và công trình ở thềm lục địa của Việt Nam trên cơ sở điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là thành viên, hợp đồng ký kết theo quy định của pháp luật Việt Nam hoặc được phép của Chính phủ Việt Nam. Các quyền tự do biển của các quốc gia khác được tôn trọng và thực hiện đúng như quy định của CƯLB.
Đảo, quần đảo
Một điểm mới nữa là Luật biển 2012 có định nghĩa về đảo, quần đảo (Điều 19) và quy định về chế độ pháp lý các vùng biển của chúng (Điều 20 - 21). Nếu định nghĩa đảo hoàn toàn giống như Điều 121.1 CƯLB thì định nghĩa về quần đảo có phần sáng tạo, làm rõ hơn. Đảo là một vùng đất tự nhiên có nước bao bọc, khi thủy triều lên vùng đất này vẫn ở trên mặt nước. Quần đảo là một tập hợp các đảo, bao gồm cả bộ phận của các đảo, vùng nước tiếp liền và các thành phần tự nhiên khác có liên quan chặt chẽ với nhau.
Điều 19. 3 Luật biển khẳng định đảo, quần đảo thuộc chủ quyền của Việt Nam là bộ phận không thể tách rời của lãnh thổ Việt Nam. Đây là nguyên tắc nhất quán đã ghi trong Điều 1 Hiến pháp Cộng hòa XHCN Việt Nam 1992 và Điều 1 Luật Biên giới quốc gia 2003. Quy định này nhằm nhấn mạnh hơn nữa sự gắn bó, không thể chia cắt của bộ phận lãnh thổ đảo, khẳng định chủ quyền đầy đủ, toàn vẹn của Nhà nước ta đối với các đảo, quần đảo.
Điều 1 Luật biển 2012 nêu rõ: Luật này quy định về đường cơ sở, nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa, các đảo, quần đảo Hoàng Sa, quần đảo Trường Sa và quần đảo khác thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia của Việt Nam; hoạt động trong vùng biển Việt Nam; phát triển kinh tế biển; quản lý và bảo vệ biển, đảo.
Để tránh các bất đồng và dễ dàng tìm giải pháp cho tranh chấp ở Biển Đông, phù hợp với CƯLB, Việt Nam quy định rõ đảo thích hợp cho đời sống con người hoặc cho một đời sống kinh tế riêng thì có nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Đảo đá không thích hợp cho đời sống con người hoặc cho một đời sống kinh tế riêng thì không có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của các đảo, quần đảo được xác định theo quy định tại các Điều 9, 11, 13, 15 và 17 của Luật biển 2012 và được thể hiện bằng hải đồ, bản kê toạ độ địa lý do Chính phủ công bố.
Luật biển 2012 đã thể hiện một cách rõ ràng, nhất quán lập trường của Việt Nam trong xác định phạm vi và chế độ pháp lý các vùng biển, phù hợp với CƯLB. Điều này tạo điều kiện thuận lợi cho việc quản lý, bảo vệ, sử dụng biển và giải quyết các tranh chấp biển một cách hòa bình.
Văn Hùng (lược trích) Huyền Sâm, Anh Dũng