Việt Nam đã đưa ra các đề xuất vì lợi ích chung của các nước đang phát triển

Việt Nam nằm trong số 10 quốc gia có tính đa dạng sinh học cao với khoảng 7.500 loài chủng vi sinh vật; 20.000 loài thực vật bậc cao trên cạn và dưới nước; 10.500 loài động vật trên cạn; 1.000 loài cá nước ngọt; dưới biển có trên 7.000 loài động vật không xương sống, khoảng 2.500 loài cá và xấp xỉ 50 loài rắn biển, rùa biển và thú biển.

W-biendong-13.png
Việt Nam nằm trong số 10 quốc gia có tính đa dạng sinh học cao 

Trong thực tế, khả năng tiếp cận, khai thác các nguồn gien biển, nguồn lợi đa dạng sinh học biển và năng lực bảo tồn biển cả giữa các quốc gia phát triển và đang phát triển còn cách biệt lớn. Trong bối cảnh đó, để có được sự thỏa hiệp giữa các nhóm nước có lợi ích khác nhau trong việc thúc đẩy các hoạt động bảo tồn và sử dụng bền vững nguồn gien ở vùng biển ngoài quyền tài phán quốc gia, xây dựng năng lực và chuyển giao công nghệ biển, bảo đảm công bằng trong chia sẻ lợi ích từ việc khai thác và sử dụng bền vững nguồn gien biển phong phú này là cực kỳ phức tạp. Nó đòi hỏi các quốc gia thành viên của LHQ phải có những đóng góp tích cực, phải có thiện chí vì các mục tiêu chung, bao trùm. 

Nhận thức rõ điều đó, Việt Nam đã tham gia tích cực, từ sớm, từ xa, ở nhiều cấp độ và đã đóng góp thực chất vào tiến trình thương lượng tại các Hội nghị liên Chính phủ. Trong các cuộc đàm phán và thương lượng, Đoàn nước ta đã đưa ra các đề xuất vì lợi ích chung của các nước đang phát triển, đặc biệt là các quy định liên quan đến xây dựng năng lực và chuyển giao công nghệ biển, đồng thời thúc đẩy các nội dung của dự thảo văn kiện phù hợp với quy định của luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước Luật biển 1982, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của Việt Nam.

Văn kiện sẽ là cơ sở pháp lý để thúc đẩy các hoạt động bảo tồn và khai thác nguồn gen biển ngoài vùng tài phán quốc gia, đồng thời bảo đảm công bằng trong chia sẻ lợi ích từ việc khai thác và sử dụng bền vững nguồn gen biển phong phú tại vùng biển nằm ngoài phạm vi tài phán quốc gia.

Trong bối cảnh còn tồn tại khoảng cách lớn trong khả năng tiếp cận, khai thác tài nguyên gen biển giữa các quốc gia phát triển và đang phát triển, việc xây dựng một khuôn khổ pháp lý toàn cầu về xây dựng năng lực và chuyển giao công nghệ biển, chia sẻ lợi ích có được từ khai thác nguồn gen biển là vô cùng cấp thiết.

Chuẩn bị các phương án để tham gia bảo tồn, sử dụng bền vững đa dạng sinh học biển

Theo PGS. TS Nguyễn Chu Hồi, trong hai năm tới, trước khi các quốc gia thành viên ký kết Hiệp ước Biển cả này thì Việt Nam tiếp tục phải nâng cao nhận thức cho toàn hệ thống chính trị, cho toàn xã hội để tìm được sự đồng thuận cao nhất về vấn đề này.

Cũng cần duy trì “nhiệt huyết” và kinh nghiệm từ quá trình đàm phán để thực sự biến cam kết quốc tế thành hành động ở cấp quốc gia, “hứa là làm” để nâng cao vị thế và uy tín quốc tế của Việt Nam trong thế giới đại dương toàn cầu, xứng đáng là một quốc gia biển.

Bên cạnh đó, các bộ, ngành và tổ chức, địa phương liên quan phải chuẩn bị các phương án (kịch bản) để tích cực và chủ động tham gia bảo tồn và sử dụng bền vững đa dạng sinh học biển ở các vùng biển ngoài quyền tài phán quốc gia trong Biển Đông và ngoài biển cả.

Đánh giá đúng tình hình 5 năm thực hiện Nghị quyết 36 về phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam và việc thực hiện Mục tiêu phát triển bền vững số 14 đã nói trên. Ngoài ra, cần đẩy nhanh tiến độ xây dựng Đề án thành lập Trung tâm Nghiên cứu quốc gia về Công nghệ đại dương; cũng như có thể phát triển nghề cá viễn dương với đội hình ra biển có tổ chức, đủ mạnh và hiện đại.

Cần ngăn chặn, đẩy lùi và từng bước loại bỏ khai thác thuỷ sản bất hợp pháp, không khai báo và không theo quy định (IUU) hướng tới phát triển nghề cá bền vững và có trách nhiệm.

Và cũng cần chú trọng đào tạo đội ngũ cán bộ về quản trị biển, về khoa học - công nghệ biển có đủ kiến thức, kinh nghiệm và kỹ năng giải quyết, tư vấn các vấn đề quy định trong Hiệp ước Biển cả. Bên cạnh đó, cần mạnh dạn áp dụng các biện pháp “mạnh” để chuyển từ nghề cá nhỏ, truyền thống sang nghề cá thương mại theo hướng công nghiệp hoá, hiện đạo hoá, có khả năng hội nhập quốc tế cao.

Nguyễn Anh Duy, Đỗ Hữu Khôi