Người ta nói rằng ở Trung Quốc có 3 giới tính: đàn ông, phụ nữ và tiến sĩ nữ. “Câu nói đùa ấy có nghĩa là chúng tôi vô tính và không đủ nữ tính” – Deng, nghiên cứu sinh ngành Xã hội học, 27 tuổi tới từ tỉnh Hồ Nam chia sẻ khi đang ngồi ở một chiếc bàn kim loại nhỏ bên ngoài thư viện chính ĐH Hồng Kông.

{keywords}

Bao nhiêu đàn ông Trung Quốc vẫn còn muốn nhìn thấy những phụ nữ như thế này nữa? Ảnh: Reuters

Những phụ nữ còn sót lại

Deng là một trong số hơn 100.000 phụ nữ Trung Quốc bị cho là thế hệ tiếp theo của những bà cô không chồng. Theo những người chỉ trích, họ sống khép kín, thiếu hấp dẫn, chỉ quan tâm tới sự nghiệp - những người mà theo một số học giả và quan chức Trung Quốc, họ thậm chí gây ảnh hưởng không tốt tới yếu tố xã hội của nước này khi đặt giáo dục lên trên gia đình.

Bất chấp những thành kiến đó, Deng là một cô gái hay nói, giọng cao và nhẹ. Mái tóc ngắn khiến khuôn mặt cô trông nữ tính hơn. Hiện Deng đang nghiên cứu về điều kiện làm việc ở các nhà máy Trung Quốc với hi vọng cải thiện cuộc sống của công nhân. Một trong những công nhân cô phỏng vấn đã “sốc” khi biết cô đang học lên Tiến sĩ. “Dù là tiến sĩ nhưng cô không hề xấu” – Deng nhắc lại câu nói của anh ta.

Ngày nay, phụ nữ Trung Quốc đang có trình độ hơn bao giờ hết. Nhưng số lượng càng tăng thì những chỉ trích và chế giễu nhắm vào họ ngày càng nhiều. Các chuyên gia về giới cho rằng thật đáng lo ngại khi quan điểm của người Trung Quốc ngày càng bảo thủ ngay cả khi đời sống người dân đang ngày càng giàu hơn và có học thức hơn.

Những thành kiến về nữ nghiên cứu sinh đang ngày một đáng lo ngại ở Trung Quốc khi rất nhiều phụ nữ đang trở thành “shengnu” – “những phụ nữ còn sót lại” – những người đã đến tuổi 27 mà chưa kết hôn. “Phụ nữ chủ yếu bị xem như công cụ sinh sản, sinh con vì lợi ích quốc gia” – bà Leta Hong Fincher, tác giả cuốn “Những phụ nữ còn sót lại: Sự hồi sinh của bất bình đẳng giới ở Trung Quốc” nhận định.

Sự giễu cợt dành cho phụ nữ có bằng tiến sĩ – những người thường chưa học xong cho tới khi 28 tuổi - thì còn cay độc hơn. “Có một sự kỳ thị truyền thông xung quanh những phụ nữ có học vị cao” – bà Fincher nói, đặc biệt là truyền thông xã hội.

{keywords}

Sinh viên trong lễ tốt nghiệp ĐH Phục Đán, Thượng Hải. Ảnh: Reuters

Một chủ đề thảo luận mới đây trên một diễn đàn nổi tiếng của Trung Quốc giật tít: “Nữ tiến sĩ có xấu xa đến mức không thể kết hôn?” “Họ vô tâm, vô đạo đức, thô tục và yếu ớt” – một người dùng Weibo nói.

Theo một khảo sát trên Weibo vào tháng Giêng năm ngoái, có 30% trong số 7.000 người nói rằng họ sẽ không kết hôn với một phụ nữ có bằng tiến sĩ.

Ngoài việc bị gọi là “giới tính thứ ba”, nữ tiến sĩ còn bị gọi là “tu nữ lạnh lùng”, “UFO” (viết tắt của ugly – xấu xí, foolish – ngu ngốc và old – già nua). Ở ĐH Sun Yat Sen (Quảng Châu) mà Deng đang làm nghiên cứu sinh, các sinh viên nam thường ví ký túc xá của những nữ nghiên cứu sinh là Cung Trăng – nơi mà chị Hằng sống trong đơn độc, chỉ có một chú thỏ để làm bạn.

“Sự ngu dốt là đức hạnh của người phụ nữ”

{keywords}

Các cô gái trong buổi ghi hình một chương trình hẹn hò ở Thượng Hải. Ảnh: Reuters

Vào những ngày đầu tiên thành lập nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, Đảng Cộng sản đã rất tích cực đánh đổ tư tưởng Nho giáo cũ về phụ nữ. Mao Trạch Đông từng kêu gọi phụ nữ “nắm giữ một nửa bầu trời” bằng cách đi học và kiếm việc làm.

Kết quả là, tỷ lệ nữ giới học phổ thông đạt 40% vào năm 1981 – tăng 25% so với năm 1949, trong khi tỷ lệ học đại học tăng từ 20% lên 34% trong cùng kỳ - theo một nghiên cứu năm 1992 của Trung tâm Đông tây (Hawaii). Vào giữa những năm 80, có 90% phụ nữ đi làm.

Kể từ khi Trung Quốc bắt đầu bỏ nền kinh tế bao cấp trong những năm 80 và 90, nhiều doanh nghiệp nhà nước tuyển dụng phụ nữ hơn, cũng là lúc những giá trị bảo thủ bắt đầu quay trở lại. “Có vẻ như quan điểm ‘ngu dốt là đức hạnh của phụ nữ’ đang quay trở lại” – He Yufei, 27 tuổi, một trong những bạn cùng lớp của Deng ở ĐH Hồng Kông trích dẫn câu nói mang hàm ý rằng phụ nữ chỉ nên tập trung vào vai trò làm vợ, làm mẹ.

Một trong những quan điểm chủ đạo là phụ nữ không nên có chức vụ và trình độ cao hơn chồng mình. Theo Louise Edwards – một chuyên gia về giới và văn hóa ở ĐH New South Wales của Australia, sự đổ bộ văn hóa của các bộ phim truyền hình sướt mướt, nhạc pop và phim Hàn Quốc, Nhật Bản – những xã hội có truyền thống bảo thủ, chưa bao giờ đi qua giai đoạn giải phóng phụ nữ mà Trung Quốc đã trải qua – lại tiếp tục củng cố quan điểm này. “Với việc bạn có bằng tiến sĩ, bạn đang là kẻ thò mũi vào hệ thống này” – ông Edwards nói.

Ngoài ra, những định kiến truyền thống có vẻ đang rất tiện cho Chính phủ Trung Quốc trong thời điểm nước này đang phải đối mặt với vấn đề nhân khẩu học. Đến năm 2020, đàn ông Trung Quốc sẽ nhiều hơn phụ nữ ít nhất 24 triệu người – theo Cục Thống kê quốc gia. Một số nhà nghiên cứu cho rằng khái niệm “shengnu” (gái ế) đã được các cán bộ tuyên truyền của nước này dựng lên để buộc phụ nữ phải kết hôn càng sớm càng tốt.

“Chính phủ rất quan tâm tới những người đàn ông bị “dư thừa”, không tìm được vợ. Vì thế, họ buộc những phụ nữ có học thức phải kết hôn” – ông Fincher nói. “Chính phủ Trung Quốc không đề cập chút nào tới việc mất đi những phụ nữ có tiềm năng trong thị trường lao động, và điều đó phản ánh những lo ngại ngắn hạn về sự ổn định xã hội”.

“Họ đã già, giống như những viên ngọc trai vàng”

{keywords}

Sinh viên trong lễ tốt nghiệp ở ĐH Phúc Đán. Ảnh: Reuters

Tiến sĩ là một tấm bằng tương đối mới ở Trung Quốc. Cuối những năm 60, các chương trình sau đại học đều bị cấm trong suốt Cuộc Cách mạng Văn hóa Trung Quốc. Sau đó, tới năm 1982 bằng tiến sĩ mới được cấp lại. Hiện tại, sau khi mở rộng hệ thống giáo dục đại học nhằm vươn tới sự cạnh tranh trên tầm quốc tế, Trung Quốc lại cấp bằng tiến sĩ nhiều hơn bất cứ quốc gia nào. Nước này có 283.810 Tiến sĩ vào năm 2012 – so với 50.977 tiến sĩ của Mỹ cùng năm đó.

Phụ nữ Trung Quốc chiếm một nửa số cử nhân và gần một nửa số Thạc sĩ, tuy nhiên chỉ có 35% tiến sĩ là phụ nữ vào năm 2012 – so với 46% ở Mỹ. Phụ nữ trẻ Trung Quốc vượt trội hơn nam giới đến mức một số trường đại học bắt đầu yêu cầu điểm đầu vào của nữ sinh cao hơn nam sinh.

“Mặc dù phụ nữ học tốt ở đại học nhưng họ thường dừng lại ở bằng thạc sĩ và đó chính là lý do. Một phần là vì định kiến này” – ông Edwards nói.

Không chỉ các blogger vô danh hay các nam sinh đại học là hay nhạo bang phụ nữ học cao. Mới đây, hồi tháng Giêng, Chen Riyuan – một học giả ở Quảng Châu, cũng là một chính trị gia trẻ - đã nói rằng phụ nữ độc thân mà có bằng tiến sĩ thì giống như “sản phẩm hạ giá”.

Liên đoàn Phụ nữ Trung Quốc đã viết trên trang web của hội nhân ngày Quốc tế Phụ nữ năm 2011 rằng: “Khi phụ nữ có bằng Thạc sĩ hoặc tiến sĩ, họ đã già, giống như những viên ngọc trai màu vàng”.

Cũng có một số phụ nữ tin rằng học lên tiến sĩ sẽ làm họ mất cơ hội để ổn định cuộc sống. “Nhiều bạn bè tôi từ bỏ học vị tiến sĩ vì họ nghĩ rằng họ cần có bạn trai” – Meng Ni, một nghiên cứu sinh ở ĐH York, Anh cho biết.

Con đường học thuật bạc bẽo

Mặc dù con đường học thuật khó khăn, song thị trường việc làm quá khắt khe khiến cuộc sống của những phụ nữ chọn con đường này cũng không hề dễ dàng. Họ được trả khoảng 1.000 tệ (khoảng 160 USD)/ tháng, cộng thêm một chút thù lao từ việc làm trợ giảng hoặc quản lý ký túc xá.

Huang Yalan, cô gái 25 tuổi đang làm nghiên cứu sinh ngành truyền thông ở ĐH Thanh Hoa (Bắc Kinh) hiện đang sống trong một phòng ký túc xá nhỏ và dành hầu hết thời gian để nghiền ngẫm các bài viết về lý thuyết truyền thông – đề tài luận án của cô. Cô gặp bạn trai mỗi tháng một lần. Nếu xin được công việc làm giảng viên sau khi tốt nghiệp, cô có thể nhận mức lương khởi điểm từ 3.000 đến 6.000 tệ/ tháng. Và phải mất vài năm đến chục năm cô mới trở thành giáo sư.

He – một tiến sĩ nữ - kể rằng cô từng bị một giáo sư từ chối hướng dẫn vì ông chỉ muốn hướng dẫn nghiên cứu sinh nam. Một trường hợp khác là Carrie, 30 tuổi, tiến sĩ truyền thông ở một trong những đại học hàng đầu Trung Quốc cho biết cô đã bị “sốc” khi câu hỏi đầu tiên mà một nhà tuyển dụng hỏi cô là có định sinh con trong vòng một năm nữa hay không. “Tôi đã rất tức giận nhưng tôi phải kiềm chế”.

Cái gì không có lợi cho nữ tiến sĩ sẽ không có lợi cho Trung Quốc

{keywords}

Tỷ lệ nữ Tiến sĩ và nam Tiến sĩ ở Trung Quốc. Dữ liệu: Bộ Giáo dục Trung Quốc

Không khuyến khích phụ nữ đi làm hoặc học cao sẽ gây bất lợi cho nền kinh tế của bất cứ quốc gia nào, đặc biệt là Trung Quốc. Đất nước này đang phải đối mặt với dân số già đi nhanh chóng và lực lượng lao động dự kiến chỉ còn 10 triệu người trong năm nay. Dân số trong độ tuổi lao động bắt đầu giảm từ năm 2012 – giảm gần 4 triệu người vào năm ngoái. Trong khi 2 người hàng xóm sát cạnh là Nhật Bản và Hàn Quốc – những quốc gia đang gặp vấn đề nhân khẩu học tương tự - thì đang có những chiến dịch cộng đồng nhằm đưa nhiều phụ nữ hơn vào lực lượng lao động, thì Trung Quốc không hề có bất cứ chiến dịch nào.

Kết quả là, tỷ lệ lao động nữ của Trung Quốc – từng là một trong những quốc gia cao nhất thế giới – sụt giảm nghiêm trọng. Tỷ lệ phụ nữ thành thị trong độ tuổi lao động giảm xuống 60,8% vào năm 2010 – so với 77,4% vào năm 1990, vì ngày càng nhiều phụ nữ chọn ở nhà sau khi sinh con.

Trong xếp hạng bình đẳng giới của Diễn đàn kinh tế thế giới, Trung Quốc hiện đứng thứ 87 trong tổng số 142 quốc gia, dưới cả El Salvador, Georgia và Venezuela. Khoảng cách thu nhập cũng lớn hơn: Một nghiên cứu cho thấy từ năm 1995 đến năm 2007, thu nhập của phụ nữ so với thu nhập của nam giới giảm từ 84% xuống còn 74%.

Việc phụ nữ ít khi học cao cũng là lý do giải thích tại sao họ vắng mặt trong giới hoạch định chính sách và sau cùng là trong Chính phủ - nơi mà một nửa số thành viên trong cơ quan có quyền quyết định cao nhất là Ủy ban Thường vụ Bộ Chính trị (PSC) có bằng Tiến sĩ. Tỷ lệ phụ nữ giữ chức Bộ trưởng trở lên vẫn dưới 10% kể từ năm 1982. Chưa có bất cứ phụ nữ nào từng được đề cử vào PSC hay vị trí Bí thư Đảng Cộng sản.

Tuy vậy, các nữ tiến sĩ vẫn đang phấn đấu hết mình

Bất chấp mọi định kiến, các nữ tiến sĩ vẫn nhanh chóng bắt kịp các đồng nghiệp nam. Từ năm 2004 đến năm 2012, tỷ lệ nữ tiến sĩ đã tăng 19 lần.

Trong số hàng chục nghiên cứu sinh đang ngồi chung văn phòng với Deng ở ĐH Hồng Kông, hơn một nửa trong số đó là phụ nữ Trung Quốc. Deng nói rằng cô tin cô và các đồng nghiệp vẫn có ích cho Trung Quốc.

“Tôi nghĩ các nữ nghiên cứu sinh có thể chứng minh một cách sống khác của phụ nữ” – cô nói. “Không phải sống cuộc sống nhờ chồng con hay các anh em trai, mà là chứng minh phụ nữ cũng có thể học cao, độc lập và hạnh phúc”.

  • Nguyễn Thảo (Theo QZ)