Mỗi dịp kỷ niệm ngày Thống nhất đất nước 30 tháng Tư - ngày giang sơn thu về một mối - dù hân hoan khải hoàn, dù cuộc chiến đã lùi xa ngót nửa thế kỷ, trong sâu thẳm của nhiều người vẫn trăn trở, day dứt bởi cùng là con Lạc cháu Hồng, cùng nghĩa tình đồng bào trong một nước nhưng vẫn chưa xóa được mặc cảm, thậm chí vẫn còn sự phân biệt, kỳ thị người phía bên này, người phía bên kia. 

Thậm chí, trong nhiều lĩnh vực của đời sống vẫn có những quy định rất khắt khe và vẫn tồn tại đến hiện nay. 

Đơn cử tháng 11/2018, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch có dự thảo nghị định xin chủ trương thay thế Nghị định 79 về Hoạt động Nghệ thuật biểu diễn, trong đó kiến nghị bỏ các khái niệm "ca khúc trước năm 1975", "ca sĩ hải ngoại"; bỏ cấp phép ca khúc sáng tác trước năm 1975, hoặc ca khúc do người Việt Nam ở nước ngoài sáng tác được quy định trong Nghị định 79. [1] 

Động thái đó quả là đáng mừng vì những quy định có tính định kiến hiện hành như vậy sẽ khó mà giúp hòa hợp chứ chưa nói đến còn khoét sâu thêm khoảng cách trong một bộ phận cộng đồng người Việt cả ở trong nước và nước ngoài. 

Cho nên, đã có chủ trương là người Việt Nam, dù ở trong nước hay ở nước ngoài, dù trước đây ở bên này hay bên kia chiến tuyến, thì cần cùng hướng về nhau, sống và ứng xử với nhau đúng nghĩa tình đồng bào. Có như vậy mới vượt qua những rào cản của quá khứ để lại. Đó không chỉ là mong muốn mà còn là lương tri, tình cảm; là trách nhiệm với quốc gia, với hàng triệu người con của dân tộc đã ngã xuống trong các cuộc chiến tranh vệ quốc, với thế hệ hôm nay và mai sau. 

Trên chủ trương, quan điểm đó, các cộng đồng của dân tộc sẽ bỏ qua được mặc cảm, nghi kỵ dù có khác nhau về quan điểm, suy nghĩ và giá trị. 

Có như vậy, một bộ phận đồng bào của mình mới không bị đẩy thành lực lượng đối lập; đất nước mới thoát khỏi tình trạng phải thường xuyên đối phó với sự chống phá của “các thế lực thù địch”, với “âm mưu gây bạo lọan” và thoát ra khỏi sự căng thẳng không đáng có. 

{keywords}
Hòa hợp dân tộc để ‘quốc thái dân an’

Để có được sự đồng thuận của cả cộng đồng dân tộc thì tất cả mọi người mang quốc tịch Việt Nam cần vượt qua rào cản tâm lý để lấy lợi ích quốc gia, lợi ích của toàn thể đồng bào mình làm tối thượng. 

Mặt khác, mỗi người, nhất là những nhà quản lý, cần có sự nhìn nhận biện chứng về tính đa dạng, sinh động của đời sống xã hội. Con người là những thực thể khác nhau, có tố chất khác nhau; có hoàn cảnh, địa vị xã hội khác nhau; có đời sống vật chất và tinh thần khác nhau …thì tất yếu sẽ có tư duy, nhận thức, sở thích, quan niệm, giá trị khác nhau, tạo nên sự đa dạng, muôn màu muôn vẻ của xã hội. 

Trong đời sống tự nhiên, muôn loài luôn tồn tại và phát triển nhờ chi phối, ràng buộc lẫn nhau để tạo nên sự đa dạng sinh học. Nếu mất cân bằng sinh thái thì sự sống của tất cả các loài đều bị đe doạ. 

Trong đời sống xã hội, cái riêng của mỗi cá thể, của mỗi cộng đồng là nền tảng cho sự tồn tại của cái chung, của cả cộng đồng, của cả dân tộc. Giữa cái chung và cái riêng luôn đảm bảo sự hài hoà, tôn trọng lẫn nhau, tạo môi trường ổn định cho phát triển. 

Lúc sinh thời, với tư duy biện chứng, Bác Hồ cho rằng những khác biệt trong xã hội là tất yếu khách quan và muốn cho quốc gia tồn tại, phát triển thì phải chấp nhận sự khác biệt để tạo được đồng thuận xã hội. Bởi vậy Người luôn đề cao tinh thần hoà hợp, đoàn kết dân tộc. 

Người viết: “Năm ngón tay cũng có ngón ngắn, ngón dài. Nhưng ngắn dài đều hợp lại nơi bàn tay. Trong mấy triệu con người cũng có người thế này thế khác nhưng thế này thế khác đều dòng dõi tổ tiên ta. Vậy nên ta phải khoan hồng đại độ, ta phải nhận ra rằng đã là con Lạc cháu Hồng thì ai cũng có ít hay nhiều lòng ái quốc...có như thế mới thành đoàn kết, có đại đoàn kết thì tương lai chắc chắn sẽ vẻ vang” [2]. 

Đúc kết của Bác Hồ hết sức chí lý, vừa mang tính lý luận vừa mang tính thực tiễn. 

Vậy tại sao hàng chục năm qua, chúng ta phát động học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, nhưng vẫn còn không ít người chưa thấm nhuần tư tưởng hòa hợp, đoàn kết dân tộc của Người để cùng thật sự mở lòng, hoá giải sự khác biệt, tạo nên sự hoà hợp với nhau? 

Để thực hiện hòa hợp, đoàn kết dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh phải tạo ra không gian đa dạng, khoáng đạt để mọi người cùng chung sống hòa hợp. 

Trên thế giới có nhiều quốc gia nơi người này áp đặt quan điểm của mình cho người kia, cộng động này áp đặt quan điểm cho cộng đồng khác, và kết cục là dẫn đến mâu thuẫn đối kháng, thậm chí xung đột. 

Nhiều nước Trung Đông và nhiều nước châu Phi trải qua xung đột vũ trang triền miên, kéo dài từ thế kỷ này sang thế kỷ khác là do không thể hòa hợp được quan điểm, lối sống, lợi ích. Đây là bài học đắt giá, cảnh báo cho việc sự áp đặt các quan điểm không phù hợp với xu thế phát triển của nhân loại, không nuôi dưỡng cho sự hòa hợp dân tộc. 

Ngược lại, sự đồng thuận giữa các tôn giáo, các sắc tộc, các đảng phái ở các nước văn minh là bài học quý giá cho xây dựng đoàn kết, hòa hợp dân tộc. 

Hoa Kỳ là một quốc gia đa chủng tộc, đa tôn giáo, đa văn hóa. Ngoài một bộ phận rất nhỏ người bản địa, gần như tất cả người Hoa Kỳ hay tổ tiên của họ đều là dân di từ hàng trăm nước trên thế giới, trong đó có gần 1,5 triệu người Việt Nam, đến đây định cư trong 5 thế kỷ qua. Nhưng họ đã hòa hợp, đoàn kết với nhau và xây dựng nước Mỹ thành cường quốc hùng mạnh nhất thế gới. 

Với Việt Nam, nhờ lấy lợi ích quốc gia, lợi ích dân tộc và tình đồng bào làm tối thượng, không phân biệt đảng phái, giai cấp nên Bác Hồ đã tập hợp được các giai tầng trong xã hội từ nhân sĩ trí thức đến quan lại dưới chế độ cũ; từ công nhân, nông dân, học sinh, thương gia, địa chủ … cùng tập hợp dưới ngọn cờ dân tộc. Đây là một trong những nhân tố quyết định cho thắng lợi của cách mạng tháng Tám, thắng lợi của các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc và cuộc chiến tranh bảo vệ tổ quốc. 

Ngày nay, Việt Nam thực hiện phương châm làm bạn với tất cả các nước, mở cửa và hội nhập sâu rộng với thế giới. Các quốc gia cựu thù cũng đều trở thành đối tác chiến lược, đối tác toàn diện của Việt Nam, nhờ vậy nước ta càng ngày càng có tiếng nói và vị thế trên trường quốc tế. Đồng thời, chúng ta có thế và lực làm đối trọng với những thế lực có dã tâm thôn tính lãnh thổ của Việt Nam. 

Vì thế, không lẽ gì cùng là đồng bào mà chúng ta lại khó hòa hợp đồng thuận! Phải chăng trong sâu thẳm, có những ai đó chưa vượt qua được hận thù, mặc cảm; chưa vượt qua được sự đố kỵ và thiếu niềm tin với đồng bào của mình? 

Bởi vậy, để có sự hoà hợp dân tộc trước hết cần phải vượt qua những gì thuộc về quá khứ, tôn trọng và chấp nhận sự tồn tại đa dạng về tư duy và quan điểm. Mọi cá nhân cũng phải tôn trọng, hòa hợp với quan điểm chung của cộng đồng. 

Từ những vấn đề nêu ra trên đây, người viết bài thiết nghĩ để tạo môi trường ổn định cho sự phát triển và sự trường tồn của dân tộc, chúng ta cần làm một số việc. 

Thứ nhất: Lấy lợi ích quốc gia làm tối thượng; lấy tình cảm dân tộc, gốc rễ đồng bào làm điểm tựa để có tinh thần cởi mở, bao dung, xóa bỏ mọi mặc cảm, thiếu niềm tin lẫn nhau. 

Thứ hai: Thừa nhận sự tồn tại tư duy độc lập, quan điểm cá nhân là tất yếu khách quan, trên cơ sở đó tôn trọng những ý kiến phản biện, nhiều chiều. 

Thứ ba: Không quy chụp những người có bản lĩnh và dũng khí phản biện hoặc đưa ra ý kiến trái chiều bởi đó thường là những người có trình độ và có trách nhiệm với sự phát triển của Quốc gia, đấu tranh đến cùng bảo vệ lẽ phải. 

 Thứ tư: Ngăn chặn tư tưởng “duy ngã độc tôn”, “mục hạ vô nhân”, độc quyền chân lý bởi sự đồng thuận, hòa hợp không thể nuôi dưỡng và nảy nở trên nền tảng đó. 

Thứ năm: Cải cách mạnh mẽ thể chế, xây dựng nhà nước pháp quyền thực chất, đúng nghĩa để vừa mở đường cho nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập phát triển vừa khắc phục tình trạng tham nhũng, đặc quyền đặc lợi, mất dân chủ, bất công trong xã hội, để lấy lại niềm tin của nhân dân. 

Có như vậy thì đất nước mới thống nhất bền vững đúng nghĩa, cả về giang sơn lãnh thổ lẫn hòa hợp, đồng thuận của cả cộng đồng dân tộc, đảm bảo cho quốc thái dân an. 

Nguyễn Huy Viện 

[1].http://baovanhoa.vn/van-hoa/artmid/428/articleid/15794/se-thay-the-nghi-dinh-79-ve-hoat-dong-nghe-thuat-bieu-dien 

[2]. Hồ Chí Minh toàn tập, tập IV, tr.280-281.