Đây là hội thảo trực tuyến mở đầu cho chuỗi hội thảo chính sách liên quan đến chủ đề Covid-19 của các giảng viên Trường Chính sách công và quản lý Fulbright diễn ra mới đây.
Đại dịch tác động nghiêm trọng đến kinh tế Việt Nam
Mở đầu bài thuyết trình, TS Vũ Thành Tự Anh đưa ra bức tranh toàn cảnh về tác động của đại dịch ở góc độ toàn cầu. Bằng các phân tích và dẫn chứng số liệu đến thời điểm này, có thể khẳng định rằng đây là cuộc khủng hoảng chưa từng có tiền lệ trong lịch sử thế giới cận đại.
Theo ông, mặc dù Covid-19 là khủng hoảng toàn cầu nhưng tác động của nó lớn đến đâu sẽ phụ thuộc vào bối cảnh và phản ứng cụ thể của mỗi quốc gia. Trong từng quốc gia, mức độ tác động của đại dịch và khả năng điều chỉnh, thích nghi của mỗi ngành nghề cũng khác nhau.
Cả sản xuất công nghiệp và bán lẻ tiêu dùng đều giảm mạnh do Covid-19 |
Với quy mô kinh tế nhỏ và có độ mở thuộc hàng cao nhất thế giới hiện nay, không có gì ngạc nhiên khi bất kỳ một biến động nào bên ngoài cũng có thể ảnh hưởng ngay lập tức và nghiêm trọng đến Việt Nam. Sự phụ thuộc ngày càng lớn của Việt Nam vào đầu tư nước ngoài (khu vực FDI chiếm tới hơn 70% tổng kim ngạch xuất khẩu, gần 50% tổng sản lượng công nghiệp) khiến nền kinh tế càng dễ tổn thương trước các cú sốc bên ngoài.
Không những vậy, các ngành công nghiệp chế biến - chế tạo của Việt Nam còn lệ thuộc nặng nề vào nguồn cung nguyên vật liệu bên ngoài do sự yếu kém của các ngành công nghiệp phụ trợ. Đặc thù ở Việt Nam là để xuất khẩu thì doanh nghiệp phải nhập khẩu rất nhiều. Bởi vậy, khi các chuỗi cung ứng toàn cầu bị ngưng trệ vì dịch bệnh, các doanh nghiệp chật vật sản xuất cầm chừng khi nguồn nguyên liệu đầu vào dần cạn kiệt.
Mặt khác, cơ cấu kinh tế hiện tại của Việt Nam cũng khiến cho tác động của Covid-19 trở nên nghiêm trọng hơn. Tỷ trọng dịch vụ trong cơ cấu kinh tế tương đối cao, trong khi đây lại là ngành chịu thiệt hại nặng nề nhất của dịch bệnh và suy thoái kinh tế.
Tác động nghiêm trọng của Covid-19 được phản ánh rõ nét trong số liệu thống kê quý 1. Theo đó, tăng trưởng kinh tế Việt Nam đạt 3,82%, sụt giảm gần một nửa so với cùng kỳ năm ngoái. Cả sản xuất công nghiệp và bán lẻ tiêu dùng đều giảm mạnh với chỉ số sản xuất công nghiệp chỉ bằng 50% so với năm 2018.
Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu chỉ còn 0,5%, mức tăng thấp kỉ lục, trong khi nhập khẩu âm gần 2%, cho thấy các doanh nghiệp đang cạn kiệt nguyên liệu đầu vào để sản xuất. Về vốn đầu tư nước ngoài, đây cũng là năm duy nhất mà cả tốc độ vốn đăng kí và tốc độ vốn thực hiện đều giảm mạnh (tương ứng âm 20,9% và âm 6,6%).
Đặc biệt, các doanh nghiệp - trụ cột của nền kinh tế chịu cú sốc mạnh. Số doanh nghiệp mới thành lập tăng 4,4% nhưng quy mô về vốn và lao động đều giảm, trong đó lao động giảm tới gần một phần tư so với quý I năm 2019. Trong khi đó, số lượng doanh nghiệp tạm dừng hoạt động để nghe ngóng tình hình, hoặc chờ giải thể tăng vọt đến 26%.
Khảo sát nhanh của Ban nghiên cứu phát triển kinh tế tư nhân đầu tháng 3 vừa qua đối với 1.200 doanh nghiệp cho biết nếu như dịch kéo dài 6 tháng thì 60% doanh nghiệp sẽ bị giảm trên 50% doanh thu, gần 30% doanh nghiệp giảm từ 20 đến 50%. Nói cách khác, khoảng 90% doanh nghiệp được khảo sát có mức giảm doanh thu nghiêm trọng và 74% doanh nghiệp đứng trước nguy cơ phá sản, giải thể.
TS Vũ Thành Tự Anh cảnh báo tại hội thảo vào tháng 4, nếu không có sự can thiệp hiệu quả, hiệu lực và kịp thời của Chính phủ, một số ngành kinh tế và nhiều doanh nghiệp có thể đổ vỡ, kéo theo nhiều hệ lụy nghiêm trọng về tăng trưởng, việc làm, cũng như nhiều hệ lụy xã hội tiêu cực khác.
Chính sách ứng phó với đại dịch
Trong bối cảnh hiện nay, yêu cầu cấp bách đối với từng quốc gia cũng như toàn thế giới là phải phản ứng nhanh nhất và hiệu lực nhất với tất cả các nguồn lực có thể có để ngăn chặn khủng hoảng y tế trở thành khủng hoảng kinh tế và thậm chí trở thành khủng hoảng tài chính và nợ công, TS Vũ Thành Tự Anh nhấn mạnh.
TS Vũ Thành Tự Anh: Sự phụ thuộc ngày càng lớn của Việt Nam vào đầu tư nước ngoài khiến nền kinh tế càng dễ tổn thương trước các cú sốc bên ngoài |
Tuy nhiên, khi các quốc gia thực hiện chiến lược ngăn chặn dịch bệnh, một mặt giúp giảm tình trạng lây nhiễm, nhưng đồng thời khiến kinh tế suy giảm trầm trọng hơn khi các hoạt động sản xuất, kinh doanh và chuỗi cung ứng, phân phối bị ngừng trệ do các biện pháp ngăn chặn, phong tỏa. Suy thoái kinh tế là cái giá không thể tránh khỏi khi chống dịch.
Nhấn mạnh đây là bài toán đánh đổi mà mọi quốc gia phải chấp nhận, TS Vũ Thành Tự Anh khuyến cáo: Không nên chạy theo GDP mà xao lãng mục tiêu chống dịch. Những dự đoán gần đây của các tổ chức quốc tế như của ADB cho rằng Việt Nam có thể đạt tốc độ tăng trưởng 4,8% trong năm nay là quá lạc quan, theo nhận định của ông.
“Giữ tốc độ tăng trưởng không phải là mục tiêu chính yếu lúc này. Mục tiêu tối thượng là làm thế nào bảo toàn lực lượng để có thể chuẩn bị nền tảng hồi phục khi bước ra khỏi khủng hoảng. Lực lượng ở đây là sự sống của người dân, sức khỏe của doanh nghiệp, của hệ thống ngân hàng - tài chính và niềm tin của người dân đối với Nhà nước.
Nếu vì tiếc một vài điểm % tăng trưởng GDP mà xem nhẹ hay chấm dứt các biện pháp chống dịch quá sớm thì chúng ta có thể phải trả giá đắt”, TS Vũ Thành Tự Anh cảnh báo.
Hệ thống các chính sách can thiệp của Chính phủ để ứng phó với tác hại của Covid-19, do vậy phải đáp ứng 5 mục tiêu: Hạ thấp đường cong nhiễm dịch; Bảo vệ sức khỏe doanh nghiệp; Củng cố niềm tin xã hội; Bồi đắp nền tảng phục hồi; Hạn chế di hại tương lai.
Ra khỏi khủng hoảng trong trạng thái nào
TS Tự Anh đặc biệt lưu ý đến tầm quan trọng của mục tiêu “bồi đắp nền tảng phục hồi” và “hạn chế di hại tương lai”. Bởi lẽ, “cuộc khủng hoảng nào rồi cũng qua đi. Vấn đề là chúng ta sẽ ra khỏi khủng hoảng trong trạng thái như thế nào, điêu tàn hay với tâm thế đã có một số nền tảng nhất định để phục hồi nền kinh tế, giống như đại bàng hồi sinh từ đống tro tàn”, chuyên gia đến từ Đại học Fulbright đặt vấn đề.
Khu vực nông nghiệp - nông dân - nông thôn luôn là bệ đỡ của nền kinh tế Việt Nam khi rơi vào khủng hoảng |
Do đó, nếu các chính sách đưa ra chỉ giải quyết các vấn đề ngay trước mắt mà thiếu tầm nhìn cho tương lai thì không những không bồi đắp được các nền tảng để phục hồi mà thậm chí còn có thể tạo ra những hệ lụy khó khắc phục về sau.
Chẳng hạn, nếu không cân nhắc kĩ, những chính sách đưa ra trong thời kì khủng hoảng có thể quá đà, hoặc tạo ra những “rủi ro đạo đức” hay “lựa chọn ngược” khi một bên có nhiều lợi thế tiếp cận thông tin và chính sách hơn các nhóm còn lại. Hậu quả là tạo ra những nhóm lợi ích hay thể chế mà sau khi khủng hoảng qua đi sẽ cản trở năng lực phục hồi và phát triển lành mạnh của nền kinh tế, TS Tự Anh cảnh báo.
Kiến nghị tạm dừng xuất khẩu gạo gần đây của Bộ Công thương được đưa ra thảo luận như một dẫn chứng về hiện tượng phản ứng chính sách quá đà có thể gây thiệt hại lâu dài. Trong khi sản lượng lúa gạo của Việt Nam vẫn đang ổn định, chỉ thấp hơn một chút so với cùng kỳ năm ngoái, dư sức để vừa đảm bảo an ninh lương thực, vừa đảm bảo xuất khẩu gạo thì chúng ta lại bỏ lỡ cơ hội xuất khẩu gạo với giá cao.
“Đó là chưa kể như vậy chúng ta rất bất công đối với khu vực nông nghiệp - nông dân - nông thôn, vốn luôn là bệ đỡ của nền kinh tế Việt Nam khi rơi vào khủng hoảng. Thực tế vừa qua, rất nhiều người mất việc ở đô thị quay về nông thôn nương náu. Nếu không xuất khẩu được gạo, nông thôn sẽ bị quá tải, gánh nặng chồng chất thêm lên vai người nông dân vốn đã chịu nhiều khó khăn do thời tiết cực đoan, hạn mặn vừa qua. Nếu chúng ta không giúp được gì cho nông dân thì cũng không nên tước đi lợi ích của họ”, TS Tự Anh nhắc lại bài học bỏ lỡ xuất khẩu gạo giá cao từng xảy ra thời kì khủng hoảng 2008-2009.
Còn nữa
Thanh Lâm
Đại dịch, đại nạn và triển vọng tích cực
Các quốc gia đóng cửa biên giới, các nền kinh tế cô lập, các chuỗi cung ứng đứt gãy. Nền kinh tế mở bậc nhất Việt Nam cũng không ngoại trừ.