Tây Bắc gồm 11 tỉnh và các khu vực là địa bàn sinh sống của 30 dân tộc, thuộc 3 ngữ hệ khác nhau.
Các tộc người có khi sống tập trung thành từng thôn, bản, có khi rải rác, đan xen, cộng cư nhưng vẫn tạo thành nhiều vùng tộc người với các thôn bản còn lưu giữ được các giá trị văn hóa đặc sắc, với những tiềm năng to lớn. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã ban hành Quyết định số 1877/QĐ-BVHTTDL ngày 8-6-2015 công nhận Tây Bắc có 7 di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. Trong đó, Sơn La có 2 di sản: Lễ Hết Chá của người Thái, xã Đông Sang, huyện Mộc Châu và Nghệ thuật Xòe Thái tỉnh Sơn La; Điện Biên có 3 di sản: Lễ Kin pang then của người Thái trắng (thị xã Mường Lay), Tết Nào pê chầu của người Mông đen (xã Mường Đăng, huyện Mường Ẳng), Lễ hội Đền Hoàng Công Chất (xã Noong Hẹt, huyện Điện Biên); Lai Châu có 1 di sản: Nghệ thuật Xòe Thái (tỉnh Lai Châu); Yên Bái có 1 di sản: Nghệ thuật Xòe Thái (Mường Lò, thị xã Nghĩa Lộ).
Thời gian qua, được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, việc bảo tồn và khai thác di sản văn hóa vùng Tây Bắc phục vụ mục tiêu phát triển bền vững có nhiều kết quả. Cụ thể:
Cấp ủy và chính quyền các cấp vùng Tây Bắc đã quán triệt, cụ thể hóa các chủ trương, nghị quyết của Đảng về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đậm đà bản sắc dân tộc thành các kế hoạch, chương trình hành động cụ thể. Các địa phương đã ban hành các nghị quyết, đề án về phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, chỉ đạo các ngành chức năng nghiên cứu xây dựng các đề tài, đề án, trong đó đặc biệt chú trọng đến phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số, như: Nghị quyết số 02/NQ-TU, ngày 28-6-2016 của Tỉnh ủy Lai Châu về giảm nghèo bền vững trên địa bàn tỉnh Lai Châu giai đoạn 2016-2020; Đề tài khoa học của Ban Dân vận Tỉnh ủy Lai Châu về “Nghiên cứu tập tục tín ngưỡng của dân tộc vùng cao và các giải pháp bảo tồn phát huy bản sắc văn hóa dân tộc”; Đề tài của Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Lai Châu về “Giải pháp bảo tồn và phát huy văn hóa truyền thống dân tộc Mông, góp phần ổn định đời sống vật chất, đời sống tinh thần của đồng bào trên địa bàn tỉnh Lai Châu”; Đề án của Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Lai Châu về kiểm kê lập danh mục bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống 13 dân tộc trên địa bàn tỉnh; Đề tài Sưu tầm và xuất bản thành ấn phẩm sáng tác của cộng đồng các dân tộc tỉnh Điện Biên (văn học dân gian và văn học viết), Đề án về kiểm kê di sản văn hóa các tộc người thiểu số tỉnh Điện Biên, Đề án giảm thiểu tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số tại tỉnh Lai Châu... Nhìn chung, các đề án, đề tài về cơ bản đã thực hiện được công tác kiểm kê, đánh giá hiện trạng di sản văn hóa vật thể, phi vật thể trên địa bàn, thực hiện việc sưu tầm để bảo lưu văn hóa, văn học dân gian các tộc người nơi đây.
Bên cạnh đó, công tác bảo tồn, khôi phục và phát huy các giá trị văn hóa vật thể, phi vật thể các dân tộc đã được các địa phương quan tâm thực hiện, đạt được những kết quả quan trọng. Đến nay, Lai Châu sưu tầm trên 31 nghìn hiện vật, trong đó có gần 1.900 hiện vật văn hóa dân tộc; kiểm kê lập danh mục di sản văn hóa phi vật thể 13 dân tộc cư trú thành cộng đồng; phối hợp tổ chức mở được 13 lớp truyền dạy văn hóa phi vật thể các dân tộc. Sưu tầm, bảo tồn tri thức dân gian của hai dân tộc (Dao và Hà Nhì); 6 làn điệu dân ca, dân vũ của các dân tộc: Thái, Si La, Lự, Mông, Hà Nhì, Dao; phục dựng 16 lễ hội của các dân tộc, đồng thời hằng năm duy trì tổ chức 40 lễ, lễ hội(11). Năm 2020, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch lựa chọn 7 lễ hội truyền thống các dân tộc thiểu số cần được phục dựng, bảo tồn. Trong đó, có 5 lễ hội vùng Tây Bắc, gồm: Lễ hội truyền thống dân tộc Lào, tỉnh Điện Biên; Lễ hội truyền thống dân tộc La Chí, huyện Quang Bình, tỉnh Hà Giang; Lễ hội truyền thống dân tộc Nùng, huyện Hoàng Su Phì, tỉnh Hà Giang; Lễ hội truyền thống dân tộc Thái, tỉnh Yên Bái; Lễ hội truyền thống dân tộc Shi La, tỉnh Lai Châu.
Các cấp ủy và chính quyền địa phương đã quan tâm, chú trọng khai thác vốn văn hóa dân gian các dân tộc thiểu số, được cụ thể hóa bằng việc tổ chức các chương trình biểu diễn nghệ thuật, các hội thi, hội diễn, liên hoan nghệ thuật quần chúng. Đến nay toàn tỉnh Lai Châu có trên 1 nghìn đội văn nghệ, trong đó có 665 đội hoạt động thường xuyên và hiệu quả. Hầu hết các địa phương trong tỉnh duy trì tốt việc tổ chức ngày hội văn hóa - thể thao các dân tộc trong các dịp lễ, tết, nhiều địa phương tổ chức vào dịp Quốc khánh 2-9 hằng năm(12). Ở Điện Biên, các sắc màu văn hóa tộc người cũng được chú trọng khai thác và phát triển trong các chương trình biểu diễn nghệ thuật quần chúng và đỉnh cao là lễ hội hoa ban, bắt đầu tổ chức thường niên từ tháng 3 năm 2016 tại thành phố Điện Biên Phủ.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, công tác bảo tồn phát huy di sản văn hóa tộc người thiểu số còn một số hạn chế như sau:
Các giải pháp còn chưa được tiến hành đồng bộ và triệt để, vì thế hiệu quả của giải pháp chưa cao. Tuy các cấp ủy, chính quyền đã có nhận thức đúng đắn về vai trò của việc bảo tồn, phát triển văn hóa truyền thống các dân tộc nhưng một bộ phận nhân dân và các cấp ủy, chính quyền còn chưa có nhận thức đầy đủ, dẫn đến tình trạng mức độ quan tâm còn thấp, hiệu quả chưa cao. Trong đó, công tác tuyên truyền trong nhân dân, đặc biệt là đối với đồng bào dân tộc thiểu số về bảo tồn di sản văn hóa chưa được chú trọng. Một số nội dung cần bảo tồn gấp, như: ngôn ngữ, sáng tác văn học dân gian, tri thức bản địa của các dân tộc chưa được quan tâm toàn diện, dẫn đến hiệu quả bảo tồn còn thấp. Vùng người Lào, người Khơ Mú ở Pa Thơm, Mường Lói, Phu Luông (huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên), vùng người Mông (Phình Sáng, Tuần Giáo, Điện Biên); vùng người Thái ở Chiềng Mai (Mai Sơn, Sơn La) hay vùng người Giáy ở xã San Thàng (thành phố Lai Châu, tỉnh Lai Châu) khi được hỏi về lịch sử tộc người, lịch sử địa bàn cư trú hay các thực hành văn hóa tộc người đều không đưa ra được những câu trả lời thỏa đáng(13).
Chưa khai thác tốt di sản văn hóa tộc người trong phát triển kinh tế - xã hội. Văn hóa được xem như một nguồn lực quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội, là một nguồn vốn trong các chiến lược phát triển. Các di tích lịch sử văn hóa, danh lam thắng cảnh, văn hóa tộc người... đã trở thành những nguồn lực quan trọng trong kinh tế du lịch, như: Sa Pa, bản Lác... Tuy nhiên, việc thực hiện các dự án phát triển kinh tế - xã hội ở vùng dân tộc thiểu số vùng Tây Bắc còn thiếu sự “vào cuộc” của các bên tham gia: nhà quản lý, chủ dự án, chuyên gia và cộng đồng được hưởng lợi hoặc bị thiệt thòi từ dự án.
Tình trạng bản sắc văn hóa dân tộc Tây Bắc của nhiều tộc người bị mai một nghiêm trọng. Các dân tộc ít người nhóm ngôn ngữ Môn - Khơ me như: Kháng, Mảng, Khơ Mú… đang có nguy cơ bị “Thái hóa”. Các dân tộc ở vùng biên giới với Trung Quốc lại có nguy cơ bị “Hán hóa”, “Choang hóa”… Còn các dân tộc ở vùng ven đô thị, ven đường giao thông lại có nguy cơ “Kinh hóa”. Người Hà Nhì ở Ý Tý (Lào Cai), Mường Tè (Lai Châu) bỏ trang phục truyền thống của dân tộc mình và mặc trang phục của người Hà Nhì - Trung Quốc sản xuất bằng vải công nghiệp. Người Mông ở biên giới phía bắc cũng bỏ trang phục sản xuất thủ công để mua trang phục mà nguyên liệu được sản xuất bằng phương pháp công nghiệp của Trung Quốc. Nghệ nhân giỏi về âm nhạc truyền thống đã mất đi, lớp trẻ rất ít biết sử dụng nhạc cụ của cha ông để lại, nhiều thanh niên không thuộc một bài, một làn điệu dân ca. Chính vì vậy, chưa giải quyết hài hòa và thỏa đáng mối quan hệ giữa bảo tồn di sản với phát tiển kinh tế - xã hội.
Chưa chú trọng việc giáo dục nhận thức về di sản văn hóa tộc người trong phát triển kinh tế - xã hội cho bà con dân tộc thiểu số. Theo nghiên cứu, nhận thức về giá trị của di sản văn hóa tộc người trong phát triển kinh tế - xã hội của chính người dân tộc thiểu số còn chưa thật toàn diện. Ví dụ, tại xã Noong Luống, huyện Điện Biên tỉnh Điện Biên năm 2017, trong một gia đình có ba đời làm thầy mo và làm thầy giáo, đến thế hệ cháu chắt hiện nay không ai biết chữ Thái. Gia đình không cho con tiếp tục học chữ Thái, ngôn ngữ, văn hóa Thái, vì lý do học chữ Thái, giỏi văn hóa Thái cũng không kiếm được tiền để sống. Tại vùng người Khơ Mú ở bản Pa Xa Xá và bản Xa Cuông (xã Pa Thơm, huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên), trong bản chỉ còn 1-2 cụ già 70, 80 tuổi hiểu biết về lịch sử tụ cư, về phong tục thờ cúng tổ tiên, phong tục cúng bản, về tín ngưỡng vật linh... của tộc người mình.
Các kế hoạch tập trung quy hoạch, xây dựng một số bản văn hóa du lịch cộng đồng, điểm nhấn là loại hình du lịch homestay, du lịch trải nghiệm, dần trở thành sản phẩm du lịch đặc trưng, thu hút khách tham quan không chỉ mang lại nguồn thu nhập cho người dân địa phương mà còn thúc đẩy việc bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc của các vùng.
Ngọc Cương, Ngọc Quý, Trần Tuấn Anh