Bốn yếu tố tổng hợp của chiến lược

Theo Quy hoạch vùng đang được xây dựng, đến năm 2030, tổng GRDP của vùng khoảng 73 tỷ USD/năm, thu nhập thực tế bình quân đầu người sẽ bằng hoặc cao hơn so với trung bình cả nước.

Phát biểu tại Hội nghị báo cáo và tham vấn về Quy hoạch vùng đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) do Bộ Kế hoạch và Đầu tư tổ chức ngày 26/11 tại Cần Thơ, nhiều đại biểu cho rằng, việc xây dựng Quy hoạch là một thách thức rất lớn, rất khó,với một không gian lớn, bối cảnh có nhiều biến động. Cùng với đó, có nhiều quyết định, quy hoạch, kế hoạch, dự án… chồng chéo nhau của các ngành và chính quyền 13 tỉnh.

Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng phát biểu kết luận Hội nghị. - Ảnh: MPI

Tuy nhiên, theo ông Nguyễn Hữu Thiện, chuyên gia độc lập về sinh thái ĐBSCL, bộ ba chính sách lớn (Luật Quy hoạch, Nghị quyết 120 của Chính phủ về phát triển bền vững ĐBSCL, Quyết định 593 năm 2016 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy chế thí điểm liên kết phát triển kinh tế - xã hội vùng ĐBSCL) chính là cơ hội vàng cho vùng phát triển.

Kết luận Hội nghị này, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng nhắc lại hàng loạt vấn đề đề cần xử lý trong định hướng phát triển ĐBSCL, với tư duy đột phá, táo bạo và tầm nhìn chiến lược hơn, vừa kế thừa, vừa phát triển. Các vấn đề cần ưu tiên sẽ là giao thông, nước và sạt lở.

Theo đại diện liên danh tư vấn Royal Haskoning DHV&GIZ, Quy hoạch được xây dựng dựa trên tiền đề đơn giản và được chấp nhận rộng rãi rằng nông nghiệp là ngành có lợi thế của vùng, và nhiều diện tích đất sản xuất hiện đang bị sử dụng thấp so với mức khả năng thu hoạch cho giá trị cao hơn, và việc sản xuất những cây trồng này mở ra tiềm năng gia tăng giá trị rộng hơn và tạo nhiều việc làm khác.

Dựa trên tiền đề này, Quy hoạch xác định bốn yếu tố tổng hợp của chiến lược phát triển vùng.

Về nông nghiệp, thúc đẩy và hỗ trợ sản xuất số lượng lớn cây trồng có giá trị cao hơn, chất lượng tốt dựa trên sự phù hợp về đất đai và nguồn nước, bằng cách nới lỏng các hạn chế sử dụng đất, hỗ trợ nhiều hơn cho nông dân và thúc đẩy các phương thức canh tác hiệu quả hơn và bền vững hơn.

Về các trung tâm đầu mối nông - công nghiệp, thu gom và tổng hợp các sản phẩm nông nghiệp và thủy sản địa phương tại các cơ sở tiểu vùng và gia tăng giá trị, thông qua phát triển các trung tâm chế biến, được bố trí hợp lý ở các trung tâm tỉnh, cùng với dịch vụ và các ngành công nghiệp phụ trợ khác.

Về giao thông, cải thiện theo từng giai đoạn đường bộ, vận tải thủy nội địa và cảng, cũng như hậu cần khu vực, để hỗ trợ các trung tâm chế biến và cải thiện khả năng tiếp cận tổng thể trong khu vực để mang lại lợi ích cho các ngành khác (bao gồm cả công nghiệp).

Về quản lý nước, bảo vệ vùng nước ngọt lõi và các vùng ven biển, cải thiện chất lượng nước (đặc biệt liên quan đến nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản), thích ứng với biến đổi khí hậu và quản lý rủi ro thiên tai.

Theo tư vấn, dự kiến, đến năm 2030, GRDP bình quân đầu người hàng năm (theo giá năm 2018) có thể ở mức 4.100 USD và tổng GRDP của vùng khoảng 73 tỷ USD/năm. Thu nhập thực tế bình quân đầu người sẽ bằng hoặc cao hơn một chút so với mức trung bình của cả nước và sẽ bền vững hơn. Hiện, GDP bình quân đầu người của vùng vẫn thấp hơn 18% so với mức trung bình của cả nước. Trong khi đó, tác động của tăng trưởng kinh tế gia tăng và nhiều cơ hội hơn trong khu vực sẽ làm giảm xuất cư và làm chậm sự gia tăng độ tuổi trung bình của dân số.

Đặc biệt, lợi ích tập thể từ Quy hoạch vùng sẽ được phân bổ tương đối đồng đều. Trong ngắn hạn, những thay đổi trong mô hình sản xuất nông nghiệp và năng suất nông nghiệp sẽ mang lại lợi ích cho số lượng lớn nông dân sản xuất nhỏ; chế biến dựa vào các trung tâm sẽ tạo ra một số lượng lớn việc làm bán kỹ năng và tăng trưởng du lịch trên quy mô lớn mang lại cơ hội rộng rãi - có thể được định hướng là bao trùm nhất có thể.

Không nên “mắc kẹt” vào những vấn đề hiện tại

Theo Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng, trong bối cảnh nguồn lực ngân sách nhà nước hữu hạn, trong khi nhu cầu là rất lớn, việc xác định nhu cầu đầu tư, huy động, phân bổ và sử dụng nguồn lực đầu tư trong giai đoạn tới cần dựa trên quy hoạch vùng và phải tuân thủ nguyên tắc “không hối tiếc” trong bối cảnh biến đổi khí hậu và tác động của thượng nguồn có nhiều yếu tố bất định, khó lường đoán. 

Chuyên gia Nguyễn Hữu Thiện cho biết, ĐBSCL đang ở ngã ba đường và chúng ta không nên “mắc kẹt” vào những vấn đề hiện tại. Theo ông, thực hiện cho tốt Nghị quyết 120 sẽ giải quyết được những vấn đề nội tại ĐBSCL. Quy hoạch lần này mang tính lịch sử, nhưng sẽ còn những lúng túng và còn những vấn đề Quy hoạch này chưa giải quyết được, song chúng ta có thể nhìn thấy tương lai sáng của vùng.

Làm rõ hơn về nguyên tắc “không hối tiếc”, ông Nguyễn Hữu Thiện giải thích, bối cảnh của việc lập chiến lược, quy hoạch là không chắc chắn, như biến đổi khí hậu, nước biển dâng, các biến động ở thượng nguồn Mekong. Hành động thích ứng có thể đúng, có thể sai (như lợi trước mắt, hại bộc lộ dần về lâu dài), trong khi nguồn lực bao giờ cũng hạn chế, cần phải ưu tiên hóa.

Do đó, các phương án tính toán cần theo hướng có thể sửa đổi được nếu nhận ra sai lầm, tránh “đâm lao phải theo lao”, không loại bỏ các phương án thích ứng khác trong tương lai; đồng thời hành động ở nơi này, của ngành này không gây ảnh hưởng nơi khác, ngành khác.

Vị chuyên gia nhắc tới một số ví dụ “hối tiếc” trước đây, như thâm canh lúa ba vụ ở một số nơi đã đem lại lợi ích ban đầu, song làm đất đai suy kiệt và về lâu dài có thể ảnh hưởng an ninh lương thực, làm mất không gian hấp thu lũ, mất tài nguyên thủy sản. Việc xây dựng đê bao làm tăng ngập nơi khác, gây ra thực trạng “ngoài đồng không có nước, nhưng có rất nhiều nước trong thành phố”.

Hoặc các nỗ lực ngọt hóa vùng mặn sẽ dễ “thất thủ” trong bối cảnh mới, trong khi chi phí duy tu cho các công trình ngọt hóa sẽ tăng dần, do đó nên chăng dần dần trở lại mặn – ngọt luân phiên theo mùa?

Vị chuyên gia cũng cho rằng không nên thực thi ý tưởng ngăn cửa sông Cửu Long vì các tác động như thay đổi thủy văn, triệt tiêu thủy triều và hàng loạt hệ lụy, làm mất thủy sản tự nhiên… Tương tự, cũng không nên sao chép ý tưởng đê biển của Hà Lan vì bối cảnh rất khác của ĐBSCL và có thể làm mất sự kết nối sống còn giữa sông và biển…

Cũng theo nguyên tắc “không hối tiếc”, ông Nguyễn Hữu Thiện đề xuất, ưu tiên giải pháp phi công trình hơn giải pháp “thành trì kiên cố”; với các giải pháp công trình cũng chỉ nên cỡ nhỏ và theo hướng chỉ nên kiểm soát, không nên ngăn mặn…

MỘT SỐ NỘI DUNG QUY HOẠCH ĐBSCL:

Về quản lý nước, chia vùng ĐBSCL thành ba tiểu vùng:

- Vùng nước ngọt: Lùi vùng ngọt vào khu vực an toàn tự nhiên, không can thiệp.

-  Vùng chuyển tiếp: Chấp nhận ngọt - mặn theo mùa, chỉ điều tiết, không ngăn mặn.

- Vùng mặn: Tuần hoàn nước biển, phát triển thuỷ sản và phục hồi sinh thái

Thay đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp: 

Lấy chất lượng, thu nhập, lợi nhuận, ổn định làm những chỉ tiêu chính, thay vì chạy theo số lượng:

- Sản xuất lúa gạo: giữ ở mức cần thiết tối thiểu, tăng giá trị sản phẩm, tập trung vào vùng có lợi thế nhất, những khu vực khác cho phép chuyển đổi, giảm và tiến tới bỏ lúa vụ 3.

- Nuôi trồng thuỷ sản: Là lĩnh vực mũi nhọn để tăng thu nhập, nhưng rủi ro rất cao. Tập trung vào quản lý rủi ro, giảm thiểu tác động môi trường. Cung cấp hạ tầng thuận lợi.

- Cây trái rau màu: có tiềm năng rất lớn, do đa dạng về sản phẩm, ít phụ thuộc điều kiện tự nhiên, có nhiều loại công nghệ cao, chiều rộng và sâu của chuỗi sản xuất liên quan. Định hướng tăng giá trị, tăng diện tích, công nghệ cao.

- Chăn nuôi: trước đây gần như không có vai trò, nhưng tương lai có tiềm năng rất lớn, đặc biệt là thuỷ cầm, do đa dạng về sản phẩm, ít phụ thuộc điều kiện tự nhiên, chiều rộng và sâu của chuỗi sản xuất liên quan. Định hướng mở rộng quy mô, độ đa dạng, tăng giá trị sản phẩm.

Bảo vệ và phục hồi hệ sinh thái và đa dạng sinh học: 

Trước hết phải đảm bảo lưu thông nước giữa các dòng sông, kênh, rạch, giữa các khu vực và giữa sông - biển theo đúng cách thức vận hành hệ thống nước tự nhiên tại vùng ĐBSCL; xác định và thúc đẩy tái phục hồi diện tích hệ sinh thái tự nhiên và đa dạng sinh học lên 9% theo Nghị quyết 120…

Quan điểm chung về phát triển văn hóa, xã hội:

- Nâng cao công bằng xã hội;

- Định hướng di dân dựa trên tăng cường cơ hội việc làm và thu nhập;

- Hướng tới thịnh vượng chung trên toàn vùng;

- Đặc biệt chú trọng phát huy các giá trị bản sắc văn hoá xã hội;

- Đặc biệt chú trọng vấn đề đào tạo, nâng cao năng lực và dạy nghề. 

Linh Ngọc