Việt Nam có 54 thành phần dân tộc, trong đó có 53 dân tộc thiểu số với dân số 14,119 triệu người, chiếm 14,7% dân số cả nước. Đồng bào các dân tộc thiểu số cư trú thành cộng đồng ở 5.266 đơn vị hành chính cấp xã, 548 huyện, 51 tỉnh, thành phố.

Cộng đồng các DTTS số sinh sống gắn với rừng từ ngàn đời, có những bản sắc văn hóa và phong tục tập quán riêng, theo từng vùng. Trong đó, nhiều tập tục có giá trị rất lớn trong việc bảo tồn và phát huy rừng. Rừng đóng vai trò rất quan trọng trong đời sống của đồng bào DTTS. Rừng vừa là địa bàn cư trú, vừa là sinh kế đồng thời cũng có vị trí quan trọng trong đời sống tinh thần, nơi sinh hoạt cộng đồng của các dân tộc. Rừng là một phần không thể thiếu trong sinh hoạt văn hóa, tâm linh; không gian văn hóa của đồng bào dân tộc thiểu số gắn bó mật thiết với rừng, có những dân tộc thiểu số tự gọi tên dân tộc mình gắn liền với rừng. Đặc biệt, các yếu tố cấu thành tổ hợp Đất – Rừng – Nước là môi trường lưu giữ, vun đắp, làm nên bản sắc văn hóa phong phú, đa dạng của đồng bào các dân tộc Việt Nam. Ðồng bào dân tộc thiểu số ở vùng rừng núi, là những người dân sinh ra từ rừng, đồng bào thường nói "rừng là cha, đất là mẹ, đất và rừng nuôi người, sống rừng nuôi, chết rừng chôn".

Ảnh minh họa

Thời gian qua, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước đã tạo hành lang pháp lý quan trọng giải quyết chính sách về đất ở, đất sản xuất cho đồng bào DTTS nói riêng và 25 triệu dân nông thôn miền núi nói chung, với mục tiêu giải quyết cơ bản tình trạng thiếu đất sản xuất, đất ở.

Nghị quyết 24/NQ-TW năm 2003 đã đề ra mục tiêu đến năm 2010 phải hoàn thành cơ bản công tác định canh, định cư; chấm dứt tình trạng di cư tự do; giải quyết cơ bản vấn đề đất sản xuất cho nông dân thiếu đất; ngăn chặn tình trạng suy thoái môi trường sinh thái…

Nghị quyết số 19/NQ-TW ngày 31/10/2012 Ban chấp hành Trung ương Khóa XI đã ban hành về tiếp tục đổi mới chính sách, pháp luật về đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Về giải quyết đất đai cho đồng bào DTTS, Nghị quyết nêu rõ “... sớm có giải pháp đáp ứng nhu cầu đất sản xuất và việc làm cho bộ phận đồng bào DTTS không có đất sản xuất”.

Chỉ thị số 13-CT/TW ngày 12/01/2017 của Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa XII về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác quản lý, bảo vệ và phát triển rừng, đã chỉ rõ: … “Vai trò đặc biệt quan trọng của rừng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ môi trường sinh thái…”; “Gắn mục tiêu bảo vệ, phát triển rừng với hỗ trợ phát triển sản xuất, cải thiện đời sống, nâng cao thu nhập, bảo đảm đời sống, việc làm, an sinh xã hội cho người dân địa phương, đồng bào dân tộc miền núi, biên giới, nhất là cho người dân làm nghề rừng”.

Kết luận số 65-KL/TW, ngày 30/10/2019 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 24-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về công tác dân tộc trong tình hình mới, đã nêu nhiệm vụ tập trung giải quyết cơ bản tình trạng thiếu đất sản xuất, đất ở, nhà ở, nước sinh hoạt; đẩy nhanh việc hoàn thành các dự án định canh, định cư. Mục tiêu giải quyết cơ bản tình trạng thiếu đất sản xuất, đất ở cho đồng bào DTTS vào năm 2025.

Trên tinh thần đó, nhằm giải quyết tình trạng thiếu đất ở, đất sản xuất đã được Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành nhiều văn bản, trong đó có một số văn bản đáng chú ý là Nghị định số 163/1999/NĐ-CP ngày 16/11/1999 của Chính phủ về giao đất, cho thuê đất lâm nghiệp cho các tổ chức, hộ gia đình và cá nhân sử dụng lâu dài vào mục đích lâm nghiệp và các quy định của Luật Đất đai;

Quyết định số 134/2004/QĐ-TTg ngày 20/7/2004 của Thủ tướng Chính phủ về một số chính sách hỗ trợ đất sản xuất, đất ở, nhà ở và nước sinh hoạt cho hộ đồng bào DTTS nghèo, đời sống khó khăn;

Quyết định số 33/2007/QĐ-TTg ngày 05/3/2007 của Thủ tướng Chính phủ Về chính sách hỗ trợ di dân thực hiện định canh, định cư cho đồng bào DTTS giai đoạn 2007-2010 và Quyết định 1342/QĐ-TTg;

Quyết định số 755/2013/QĐ-TTg ngày 20/5/2013 của Thủ tướng Chính phủ Phê duyệt chính sách hỗ trợ đất ở, đất sản xuất, nước sinh hoạt cho hộ đồng bào DTTS nghèo và hộ nghèo ở xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn;

Quyết định số 2085/QĐ-TTg ngày 31/10/2016 Phê duyệt Chính sách đặc thù hỗ trợ phát triển kinh tế xã hội vùng dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2017 - 2020. Trong đó đã nêu mục tiêu cụ thể là giải quyết đất sản xuất, chuyển đổi nghề cho trên 80% số hộ đồng bào DTTS nghèo, hộ nghèo ở vùng đặc biệt khó khăn thiếu đất sản xuất…

Theo đó, giai đoạn từ năm 2003 đến 2016 đã hỗ trợ đất ở cho hơn 93.600 hộ, đất sản xuất cho trên 107.800 hộ gia đình người DTTS. Kết quả này có ý nghĩa rất quan trọng, giải quyết hàng trăm ngàn hộ đồng bào DTTS nghèo, không có đất ở, nhà ở, không có hoặc thiếu đất sản xuất. Nhiều hộ đồng bào nghèo, du canh, du cư, di cư tự do, sinh sống trong vùng thiên tai, nguy hiểm… từng bước có cuộc sống ổn định và nâng cao đời sống, tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, việc giải quyết đất đai vẫn còn tồn tại những hạn chế. Đó là tình hình khiếu kiện, tranh chấp đất đai còn diễn biến khá phức tạp, tình trạng lấn chiếm, tranh chấp đất đai giữa các hộ cá nhân với nhau, giữa hộ cá nhân với các công ty nông, lâm nghiệp diễn ra ở nhiều địa phương. Tại 5 tỉnh Tây Nguyên còn nhiều hộ thiếu đất sản xuất (chủ yếu là hộ DTTS, di cư tự do); đời sống của một bộ phận đồng bào DTTS còn rất nhiều khó khăn, còn nhiều hộ DTTS di cư tự phát cần sắp xếp, bố trí ổn định, còn nhiều hộ thiếu đất sản xuất, thiếu đất ở...

Bởi vậy, Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2030, giai đoạn I: từ năm 2021 đến năm 2025, trong đó  có Dự án 1 hướng tới giải quyết tình trạng thiếu đất ở, nhà ở, đất sản xuất, nước sinh hoạt cho hộ dân tộc thiểu số nghèo; hộ nghèo dân tộc Kinh sinh sống ở xã đặc biệt khó khăn, thôn đặc biệt khó khăn vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi đang được kỳ vọng sẽ tạo ra bước tiến lớn trong việc hỗ trợ hộ dân tộc thiểu số nghèo sinh sống tại xã đặc biệt khó khăn về đất ở, nhà ở, đất sản xuất, chuyển đổi nghề để ổn định đời sống và cải thiện sinh kế.

Thanh Hùng, Ngọc Quý, Lê Thị Na