Những khái niệm như nghe trộm, tự khởi động và đọc clipboard (vùng lưu trữ dữ liệu tạm thời) đều là từ vựng chuyên môn. Đây là các hình thức thường thấy để các ứng dụng và nền tảng thu thập dữ liệu thông tin cá nhân của người dùng với nhiều mục đích khác nhau.
Không thể phủ nhận sự phát triển nhanh chóng của Internet dựa trên việc thu thập dữ liệu khổng lồ, tuy nhiên, trong quá trình này, bao gồm cả một số công ty lớn và nền tảng lớn, có những vấn đề như đòi hỏi quyền người dùng quá mức và bảo vệ quyền riêng tư không hiệu quả. Người dùng luôn bị đặt vào tình trạng “nắm đằng lưỡi”.
Việc thu thập thông tin dữ liệu ngày càng trở nên chuyên nghiệp hơn. Điều này không chỉ có nghĩa là người dùng cần cải thiện kiến thức về an ninh mạng mà còn cho thấy khái niệm về quyền riêng tư và nhận thức về bảo vệ thông tin của mọi người đang không ngừng nâng cấp.
Cần bổ sung cơ chế quản trị an ninh mạng để đảm bảo an toàn thông tin trong thời đại công nghệ. Ảnh minh họa |
Trong một thời gian dài, người dùng chỉ có thể thụ động chấp nhận những điều khoản về quyền riêng tư, thiếu sự lựa chọn. Điều này khiến cho một số ứng dụng trở nên trầm trọng hơn, hoặc buộc phải cung cấp địa chỉ, thông tin cá nhân khi đăng ký hoặc bí mật chạy ngầm.
Rò rỉ thông tin xảy ra thường xuyên, dễ thấy nhất hiện tại là hình thức đề xuất quảng cáo liên quan đến các cuộc hội thoại vừa diễn ra. Chỉ ít phút sau khi kết thúc câu chuyện, các quảng cáo liên quan đến sản phẩm vừa đề cập sẽ liên tục xuất hiện trên phần quảng cáo của các ứng dụng và nền tảng.
Có thể nói, đằng sau mỗi báo cáo dữ liệu của người dùng là một bài học về quyền riêng tư, và những báo cáo ngày càng chuyên nghiệp là kết quả của việc các nền tảng Internet thường xuyên vi phạm ranh giới.
Tất nhiên, từ việc không bao giờ đọc các điều khoản về quyền riêng tư đến việc nghiên cứu và đánh giá cẩn thận xem liệu thông tin mà ứng dụng thu thập và các quyền được yêu cầu có hợp lý hay không, khái niệm thông tin của người dùng liên tục leo thang và họ quan tâm hơn đến quyền riêng tư, điều không thể tách rời việc xây dựng và cải thiện cơ chế an ninh mạng.
Ví dụ, ở cấp độ pháp lý, Luật An ninh mạng tại Việt Nam đã có hiệu lực từ ngày 1/1/2019. Với 7 chương, 43 điều, Luật An ninh mạng quy định về hoạt động bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội trên không gian mạng, bên cạnh đó là trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan. Tuy nhiên, vẫn còn khá nhiều nội dung, đặc biệt là an toàn thông tin cá nhân hay việc thu thập dữ liệu người dùng chưa được quy định cụ thể.
Tuy nhiên, chúng ta cần xử lý thông tin chuyên nghiệp hơn, bao gồm nội dung khiếu nại và báo cáo cho người dùng. Mặt khác, phải tăng cường quản lý vi phạm quyền riêng tư và rò rỉ thông tin, dựa trên các trường hợp được báo cáo để hình thành một số hướng dẫn có mục tiêu, một tiêu chuẩn để bảo vệ quyền riêng tư.
Ví dụ như cách xác định thông tin được ứng dụng (App) thu thập là hợp pháp, chính đáng và cần thiết và những thông tin nào "không liên quan đến các dịch vụ do nền tảng cung cấp" được đề cập trong quy định về an ninh mạng. Thông qua việc xử lý nghiệp vụ những trường hợp được báo cáo, bên cạnh sự bất cập của một số luật và quy định, có thể hình thành thêm các tiêu chuẩn thực hiện tham khảo.
Vì cái gọi là "an ninh Internet phụ thuộc vào con người", nhấn mạnh hơn vào bảo vệ quyền riêng tư, sẵn sàng bảo vệ quyền và báo cáo chuyên nghiệp hơn, đây là những thay đổi đáng hoan nghênh. Tuy nhiên, chỉ bằng cách làm cho cơ chế quản trị an ninh mạng chuyên nghiệp hơn với sự tham gia tích cực của quần chúng thì mới có thể đạt được hiệu quả cao nhất.
Bạch Hân