Theo đó:
Thứ nhất, bám sát nội dung Nghị quyết số 560/NQ-UBTVQH15 ngày 22/7/2022 của UBTVQH; sự chỉ đạo của UBTVQH và các quy định có liên quan để triển khai hoạt động giám sát hằng năm đạt hiệu quả. Thực hiện có hiệu quả Kế hoạch giám sát việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến công tác dân tộc năm 2022, báo cáo UBTVQH trước ngày 20/3/2023 đúng theo quy định của Nghị quyết 560/NQ-UBTVQH15.
Thứ hai, phối hợp chặt chẽ với Ủy ban Pháp luật và các Ủy ban của Quốc hội trong việc thực hiện, nhất là đối với các lĩnh vực liên quan đến chính sách dân tộc, công tác dân tộc (Tài chính - ngân sách, Kinh tế, Khoa học, công nghệ và môi trường, Văn hóa, giáo dục, Xã hội...) để tranh thủ sự giúp đỡ và khai thác các kết quả thực hiện của các Ủy ban có liên quan đến lĩnh vực dân tộc. Huy động sự tham gia có hiệu quả các chuyên gia, nhất là các đại biểu Quốc hội chuyên trách công tác tại các cơ quan của Quốc hội đã nghỉ hưu có am hiểu sâu sắc về pháp luật, chính sách dân tộc.
Thứ ba, trên cơ sở kết quả xây dựng Đề án đồng bộ hóa chính sách dân tộc và kết quả giám sát việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến công tác dân tộc giai đoạn 2016-2021, HĐDT phối hợp với các cơ quan có liên quan tiếp tục rà soát, bổ sung hệ thống văn bản, chính sách, pháp luật, quy định có liên quan đến lĩnh vực dân tộc; thường xuyên cập nhật, bổ sung các văn bản mới ban hành; hệ thống hóa các văn bản chính sách, pháp luật về lĩnh vực dân tộc bảo đảm đầy đủ, khoa học làm căn cứ cho việc nghiên cứu, tổ chức hoạt động, thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn được giao.
Cũng tại Hội nghị, Chủ tịch Hội đồng Dân tộc Y Thanh Hà Niê K’đăm đã để xuất, kiến nghị một số vấn đề sau:
Một là, đề nghị Quốc hội, UBTVQH:
(1) Chỉ đạo thể chế hóa khoản 5 Điều 50 của Hiến pháp năm 2013 Quốc hội quyết định chính sách dân tộc của Nhà nước; (2) Trong quá trình hoàn thiện pháp luật, chỉ đạo quy định rõ trong luật, nghị quyết, pháp lệnh giao các cơ quan có trách nhiệm quy định chi tiết, hướng dẫn thực hiện các chính sách “ưu tiên, ưu đãi, khuyến khích, tạo điều kiện…” đối với vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; (3) Tiếp tục chỉ đạo nghiên cứu, xây dựng dự án Luật điểu chỉnh về lĩnh vực dân tộc.
Hai là, đề nghị Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ:
(1) Tiếp tục quan tâm chỉ đạo tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong công nợ ban hành văn bản quy định chi tiết; đồng thời có biện pháp khắc phục đối với những văn bản quy phạm pháp luật được ban hành có nội dung chưa phù hợp, chưa bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật. Chỉ đạo các Bộ, ngành có liên quan nghiên cứu, thể chế hóa các nội dung chính sách “ưu tiên”, “ưu đãi”, “khuyến khích”, “tạo điều kiện”... trong các quy định của luật để tạo điều kiện thuận lợi cho khâu tổ chức thực hiện chính sách. Rà soát tổng thể các chính sách đối với dân tộc thiểu số, vùng dân tộc thiểu số và miền núi trong các luật, văn bản dưới luật..., bãi bỏ những quy định không còn phù hợp và sửa đổi, bổ sung các chính sách có hiệu quả nhằm bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ và khả thi của các chính sách dân tộc.
(2) Kịp thời ban hành các văn bản còn thiếu, giải quyết các vướng mắc trong thực thi pháp luật để khẩn trương tổ chức triển khai thực hiện có hiệu quả Nghị quyết số 88 và Nghị quyết số 120 của Quốc hội; bảo đảm cơ chế đặc thù trong tổ chức quản lý, thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia phù hợp với vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi;
(3) Chỉ đạo thực hiện quy định tại khoản 3 Điều 75 của Hiến pháp năm 2013 “Khi ban hành quy định thực hiện chính sách dân tộc, Chính phủ phải lấy ý kiến của Hội đồng Dân tộc”. Có văn bẳn hướng dẫn cụ thể quy định về nguyên tắc, quy trình lồng ghép vấn đề dân tộc trong xây dựng luật, văn bản quy phạm pháp luật và trách nhiệm của cơ quan chủ trì soạn thảo, cơ quan thẩm định, cơ quan
thẩm tra trong việc thực hiện đảm bảo chính sách dân tộc tại quy trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật.
Hồ Nhụy, Thanh Hà, Lê Thúy, Duy Linh, Mai Hương