Theo Bộ NN&PTNT, kim ngạch xuất khẩu thủy sản năm 2022 đạt kỷ lục gần 11 tỷ USD, tăng 23,8% so với cùng kỳ năm 2021. Trong 7 tháng đầu năm 2023, sản lượng đạt 5.093,6 nghìn tấn, tăng 1,9%. Tuy nhiên kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản 7 tháng đầu năm đạt 4,95 tỷ USD, giảm 25,4%.
Theo kết quả điều tra, giai đoạn 2010 - 2020, trữ lượng trung bình nguồn lợi hải sản ở vùng biển Việt Nam ước tính khoảng 3,95 triệu tấn, trong khi sản lượng khai thác khoảng 3,66 triệu tấn (năm 2022), vượt quá giới hạn cho phép khai thác, nguồn lợi đã và đang suy giảm, đặc biệt là nhóm hải sản tầng đáy. Sản lượng khai thác thủy sản nội đồng khoảng 200.000 tấn/năm, có vai trò quan trọng trong việc cung cấp dinh dưỡng, sinh kế cho người dân, đặc biệt là đồng bào dân tộc thiểu số. Tuy nhiên, nguồn lợi thủy sản hiện nay đang bị suy giảm, một số loài có nguy cơ cạn kiệt.
Về công tác bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản, thực hiện Quy hoạch hệ thống khu bảo tồn biển đến năm 2020, đã thành lập được 11/16 khu bảo tồn biển, đạt 174.748,85 ha (0,175% diện tích vùng biển). Trong giai đoạn 2012 - 2020, thả giống tái tạo nguồn lợi hơn 400 triệu con giống, trong đó tập trung vào các loài có giá trị kinh tế, loài bản địa và loài thủy sản nguy cấp, quý, hiếm (trắm, chép, trôi, mè, trê, sặc rằn, lăng, chiên, he, hô, tôm sú, cua biển…).
Một số địa phương tổ chức hiệu quả các tổ đồng quản lý trong bảo vệ nguồn lợi thủy sản như: Bình Thuận, Bình Định, Khánh Hòa, Thừa Thiên Huế, Hà Tĩnh, Tuyên Quang, Cà Mau, Kiên Giang… Công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức về bảo vệ nguồn lợi thủy sản và môi trường sống của loài thuỷ sản bằng nhiều hình thức đa dạng đã được triển khai trên phạm vi cả nước.
Tuy nhiên, ô nhiễm môi trường biển, ven biển đang diễn ra ngày càng nghiêm trọng. Tình trạng vi phạm pháp luật liên quan đến khai thác, bảo vệ nguồn lợi thủy sản vẫn diễn ra phổ biến, thường xuyên, như: còn hiện tượng sử dụng các nghề, ngư cụ có tính tận diệt nguồn lợi thuỷ sản như chất nổ, xung điện, lưới kéo, lưới kéo đôi (giã cào bay); đánh bắt cá con; đánh bắt trái phép ở vùng biển ven bờ, trong và xung quanh các khu bảo tồn biển, thủy vực nội đồng vẫn tiếp diễn ngày càng tinh vi.
Trong khi đó, công tác điều tra, đánh giá nguồn lợi thủy sản đã được quan tâm triển khai nhưng còn một số khu vực chưa có thông tin, dữ liệu về nguồn lợi thủy sản do chưa thực hiện điều tra như: vùng biển sâu, vùng gò nổi, rạn ngầm... dẫn đến chưa có đầy đủ thông tin về trữ lượng nguồn lợi thủy sản. Việc thành lập và đưa vào hoạt động các khu bảo tồn biển còn chậm. Công tác tổ chức hỗ trợ cộng đồng tham gia bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản, thực hiện đồng quản lý trong bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản chưa đồng bộ, chủ yếu tập trung ở vùng biển ven bờ.
Về các giải pháp thời gian tới, Bộ NN&PTNT cho biết sẽ triển khai thực hiện các Chương trình điều tra, đánh giá tổng thể nguồn lợi thủy sản và môi trường sống của thủy sản định kỳ 05 năm. Điều chỉnh cơ cấu tàu thuyền đối với một số nghề ở vùng biển phù hợp khả năng cho phép của nguồn lợi thủy sản.
Bên cạnh đó, rà soát, điều chỉnh, thành lập mới các khu bảo tồn biển cấp quốc gia, cấp tỉnh, nhằm đạt mục tiêu đạt tối thiếu 6% diện tích vùng biển cần bảo tồn theo Nghị quyết 36-NQ/TW của Bộ Chính trị về thực hiện Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển; phát triển đồng quản lý trong bảo vệ nguồn lợi thủy sản; xây dựng các chính sách nhằm hỗ trợ các khu bảo tồn biển phát triển bền vững.
Đồng thời thực hiện phục hồi, tái tạo nguồn lợi cần tập trung các loài nguy cấp, quý, hiếm, các loài bản địa, đặc hữu; xây dựng các dự án phục hồi hệ sinh thái rạn san hô, cỏ biển, tạo nơi cư trú nhân tạo.
Bộ NN&PTNT cũng xác định thực hiện tốt các giải pháp khắc phục cảnh báo của Ủy ban châu Âu về chống khai thác hải sản bất hợp pháp, không báo cáo, không theo quy định. Quản lý tốt hạn ngạch khai thác hải sản, giảm dần số lượng tàu cá khai thác và đẩy mạnh công tác chuyển đổi từ nghề khai thác xâm hại nguồn lợi thủy sản và môi trường sang làm các nghề khác cho ngư dân. Chỉ đạo các địa phương hướng dẫn ngư dân tổ chức khai thác trên biển theo chuỗi để tăng thời gian bám biển, tiết kiệm chi phí di chuyển ngư trường, nâng cao hiệu quả khai thác. Đẩy mạnh nghiên cứu ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ trong chế biến, bảo quản sản phẩm thủy sản khai thác, nâng cao giá trị sản phẩm.