Một dấu mốc quan trọng

Theo PGS. TS Nguyễn Chu Hồi, để đi đến việc thông qua Hiệp định về Biển cả (BBNJ), các cơ quan nhà nước, tổ chức và chuyên gia khác nhau của Việt Nam đã trực tiếp tham gia nghiên cứu, đàm phán bằng nhiều công sức, đã đem đến các diễn đàn LHQ không chỉ nhiệm vụ đầy trọng trách, mà còn cả cảm xúc và tình yêu biển cả, trách nhiệm với biển đảo quê hương. Đặc biệt, quá trình trù bị cho Hội nghị Liên Chính phủ, hoạt động vận động trong Đại Hội đồng LHQ và đàm phán không phải ngắn, đã kéo dài gần 20 năm và tập trung cao từ năm 2018.

W-minhhoa-2.png
Ảnh minh hoạ

Ông Nguyễn Chu Hồi được báo Tài nguyên và Môi trường dẫn lời cho hay, vào 22g00 ngày 04/3/2023 (giờ New York), tại phiên thứ 5 của Hội nghị liên Chính phủ về xây dựng văn kiện pháp lý quốc tế trong khuôn khổ Công ước Liên hiệp quốc về Luật biển năm 1982 (gọi tắt là Công ước Luật biển 1982) về bảo tồn và sử dụng bền vững đa dạng sinh học tại các vùng biển nằm ngoài quyền tài phán quốc gia (Marine Biodiversity of Areas Beyond National Jurisdiction - BBNJ), đã đạt được sự nhất trí về nội dung văn kiện.

Đây là một văn kiện quan trọng, góp phần củng cố hệ thống các văn kiện dựa trên Công ước Luật biển 1982 trong quản trị các vùng biển và đại dương, đảm bảo phát triển bền vững cho tất cả các nước.

Vì thế, Hiệp ước Biển cả (High sea) này cũng là một dấu mốc quan trọng trong việc hiện thực hoá tinh thần và các quy định của Công ước Luật biển 1982 về lĩnh vực bảo tồn và sử dụng bền vững đa dạng sinh học ở các vùng biển ngoài quyền tài phán quốc gia (nằm ngoài 200 hải lý, thuộc biển cả, bao gồm cả đại dương).

Đồng thời cũng là bước đi cụ thể để triển khai thực hiện Thập kỷ LHQ về khoa học biển, góp phần thực hiện Chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững, đặc biệt là Mục tiêu phát triển bền vững số 14 (SDG-14) về bảo tồn và sử dụng bền vững biển và tài nguyên biển, đại dương.

Cùng với Hiệp định về Đàn cá di cư (năm 1995) và Hiệp định thực thi Phần XI (1994) thì đây là văn kiện thứ 3 nhằm thực thi hiệu quả Công ước Luật biển năm 1982.

Hiệp ước Biển cả này còn có ý nghĩa quan trọng trong việc điều chỉnh các hoạt động liên quan đến bảo tồn và sử dụng đa dạng sinh học, trong đó có hoạt động của nghề cá trên phạm vi rộng lớn của các đại dương (ngoài 200 hải lý) - di sản tự nhiên của loài ngoài.

Hiệp ước về Biển cả này bao gồm 17 chương, 76 điều, 2 phụ lục với các quy định tập trung chủ yếu vào:

(i) Chia sẻ lợi ích nguồn gene biển; (ii) Thiết lập khu bảo tồn biển; (iii) Đánh giá tác động môi trường biển; (iv) Xây dựng năng lực và chuyển giao công nghệ biển, và (v) Vấn đề chung như cơ chế ra quyết định của Hội nghị các quốc gia thành viên, thành lập, vận hành các cơ quan, thể chế để thực hiện văn kiện, giải quyết tranh chấp, cơ chế tài chính.

Nội dung văn kiện đã ghi nhận nguyên tắc nền tảng về việc xem “nguồn gien biển cả” là di sản chung của nhân loại, là cơ sở để mọi lợi ích thu được từ nguồn gien biển cả này cần phải được chia sẻ công bằng giữa tất cả các quốc gia, kể cả quốc gia không có biển.

Do vậy, lần đầu tiên “thông tin chuỗi số hoá về nguồn gien” được coi là một “tài sản số” gắn liền với nguồn gien biển cả và lợi ích liên quan có thể được chia sẻ cho toàn thể nhân loại theo một cơ chế được xác định trong Văn kiện.

Nguyễn Anh Duy, Trần Hồng Kiên