Đây là mệnh đề mà Phó chủ tịch Đông Á và Thái Bình Dương của Ngân hàng Thế giới (WB) Manuela V. Ferro đặt ra cho Việt Nam trong bài viết “Để thịnh vượng, Việt Nam cần tăng hiệu suất”. Bà đưa ra đáp án: “Để Việt Nam đạt được kết quả chuyển đổi như mong muốn, việc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch sang tăng trưởng dựa vào năng suất có ý nghĩa vô cùng quan trọng”.

Lời giải về tăng năng suất không phải xa lạ với Việt Nam vì nhiều tổ chức quốc tế và các nhà kinh tế trong nước đã từng đưa ra phân tích, đánh giá trong suốt nhiều năm qua.

Nguy cơ tụt hậu trong cuộc đua đường trường

Thách thức về năng suất tăng chậm, khoảng cách về năng suất so với các nước trong khu vực tiếp tục nới rộng dẫn đến nguy cơ Việt Nam sẽ tụt hậu xa hơn trong cuộc đua đường trường về năng suất và tăng trưởng kinh tế.

Một nghiên cứu mới đây của Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) cho biết, năng suất lao động (NSLĐ) của Việt Nam hiện nay vẫn rất thấp so với các nước trong khu vực.
 
Tính theo PPP 2011, NSLĐ năm 2018 đạt 11.142 USD, chỉ bằng 7,3% mức năng suất của Singapore, 19% của Malaysia, 37% của Thái Lan, 44,8% của Indonesia và 55,9% của Philippines. Tính chung giai đoạn 10 năm 2008-2017, NSLĐ theo sức mua tương đương năm 2011 của Việt Nam tăng trung bình 4%/năm.
 
Điều này cho thấy, với biên độ tăng trưởng  NSLĐ của các ngành và nền kinh tế chỉ dao động trong ngưỡng 4% như hiện nay, Việt Nam sẽ bị tụt hậu xa hơn về năng suất so với các quốc gia trong khu vực, thậm chí nguy cơ rơi vào bẫy thu nhập trung bình là khá lớn. Theo tính toán, để bắt kịp NSLĐ và thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình, Việt Nam cần tăng trưởng NSLĐ liên tục với tốc độ 6,3-7,3%/năm.

Năng suất lao động của Việt Nam hiện nay vẫn rất thấp so với các nước trong khu vực. Ảnh: TTXVN

Trong khi đó, WB tính toán rằng, Hàn Quốc sau khi đạt được mức thu nhập bình quân đầu người như ở Việt Nam hiện nay vào năm 1972 đã có thể tăng gấp đôi thu nhập bình quân đầu người chỉ sau 10 năm và nhân lên gấp 5 lần sau 20 năm.

Thành tựu nhanh chóng như vậy là kết quả của sự kết hợp việc tăng đầu tư vào nguồn lực vật chất và nhân lực, và trên hết là nâng cao hiệu quả hoạt động, thể hiện bằng mức đóng góp ngày càng lớn của năng suất (được đo bằng TFP) vào GDP, từ mức 16% trong thập niên 1970 lên 43% thập niên 1980 và 56% thập niên 2000. Do đó, có thể lập luận rằng Hàn Quốc đã thành công trong quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế có thu nhập trung bình sang thu nhập cao nhờ quản lý hiệu quả hơn các nguồn lực hiện có thay vì chỉ tích lũy thêm tài nguyên.

Tăng trưởng ở doanh nghiệp nhà nước

Trong khi đó, ở Việt Nam có rất nhiều lĩnh vực có thể tăng năng suất, làm nền kinh tế tăng trưởng cao hơn, hiệu quả hơn mà khu vực doanh nghiệp nhà nước (DNNN) là một ví dụ.

Khu vực này năm 2021 có tổng tài sản khoảng 4 triệu tỷ đồng; quy mô tài sản bình quân của 1 DN khoảng 4.100 tỷ đồng, cao gấp 10 lần DN có vốn đầu tư nước ngoài và gấp 109 lần DN tư nhân trong nước.

Khu vực DNNN chỉ cần tăng trưởng 10% đã giúp nền kinh tế tăng trưởng mang tính bứt phá. Ảnh: Lê Anh Dũng

Hiệu quả hoạt động của DNNN chưa tương xứng với nguồn lực nắm giữ. Khu vực DNNN tiếp tục có xu hướng giảm dần quy mô và tỷ lệ đóng góp ở tất cả các chỉ tiêu về hiệu quả trong giai đoạn 2016-2021. Các DNNN nhìn chung đang có chỉ số nợ cao nhất trong các loại hình DN; chỉ hoạt động hiệu quả ở rất ít ngành, lĩnh vực có lợi thế tự nhiên như khai thác khoáng sản, dầu khí hoặc viễn thông, tài chính - ngân hàng.

DNNN tuy nắm giữ nguồn lực lớn của nền kinh tế, nhưng không có các dự án đầu tư phát triển quy mô đủ lớn tạo động lực bứt phá, sức lan tỏa, hỗ trợ nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế và của khu vực DN Việt Nam.

Không thể làm chính sách theo kiểu ‘nhỡ mà’Kinh tế quý 1 đã thể hiện những tín hiệu tích cực sau khi cách chống dịch thay đổi cùng với độ phủ vắc xin. TS Trần Đình Thiên trao đổi với TVN về những thuận lợi và khó khăn tới đây.Xem ngay

Trong giai đoạn 2016-2020, rất ít dự án, công trình mới có quy mô lớn của DNNN được khởi công; các DNNN chỉ tiếp tục thực hiện các dự án dở dang hoặc xử lý các dự án không hiệu quả từ giai đoạn trước.

Tính riêng đối với 19 tập đoàn, tổng công ty thuộc Ủy ban quản lý vốn nhà nước và tập đoàn Viettel, nơi nắm giữ đến gần 90% nguồn lực của khu vực DNNN, chỉ triển khai thực hiện 3 dự án đầu tư nhóm A, trong đó có 2 dự án chuyển tiếp từ năm 2015 trở về trước và 1 dự án khởi công mới năm 2016.

Việc không tạo ra được năng lực tăng thêm này sẽ dẫn đến trong 5 năm tới, đóng góp của khu vực DNNN đối với nền kinh tế sẽ rất hạn chế khi tỷ trọng đóng góp hiện nay của DNNN vào GDP đang là khoảng 29%.

Các chuyên gia kinh tế cho rằng, với tổng tài sản khoảng 4 triệu tỷ đồng, khu vực DNNN chỉ cần tăng trưởng 10% đã giúp nền kinh tế tăng trưởng mang tính bứt phá. Vậy mà nhiều năm nay, khu vực kinh tế này không làm được.

Đó là chưa kể đến rất nhiều khu vực khác như đất đai và đầu tư công đang còn rất nhiều dư địa cho cải thiện năng suất và thúc đẩy phát triển.

Gần đây, NSLĐ của Việt Nam có sự cải thiện đáng kể theo hướng tăng đều qua các năm. Theo CIEM, năm 2016 NSLĐ tăng 5,3% so với năm trước; năm 2017 tăng 6%; năm 2018 tăng 5,55%; 2019 tăng 6,28%; 2020 tăng khoảng 1,5 lần so với năm 2015. Mức tăng toàn xã hội bình quân giai đoạn 2016-2020 đạt 5,8%/năm, cao hơn so với mức 4,3%/năm của giai đoạn 2011-2015.

Tuy vậy, mức tăng này là chưa đủ để giúp đất nước vượt lên, và gợi ý của WB một lần nữa là rất đúng để cải cách.

Vậy điều kiện nào để có thể trở thành một nền kinh tế công nghiệp hiện đại vào năm 2035?

Theo Báo cáo Việt Nam 2035 của WB và Chính phủ, với GDP bình quân đầu người khoảng 5.370 USD (tính theo sức mua tương đương bằng USD năm 2011) vào năm 2014, trong vòng 20 năm tới, tốc độ tăng trưởng GDP bình quân đầu người tối thiểu phải đạt 6%/năm thì mới tiến tới mốc 18.000 USD vào năm 2035. 

Đây là tỉ lệ tăng trưởng cao hơn hẳn so với  tỷ lệ 5,5%/năm trong giai đoạn 1990-2014 và cao hơn rất nhiều so với mức 3,8%/năm của các nước thu nhập trung bình trong cùng thời kỳ. 

Với tốc độ tăng trưởng thấp hơn, khả thi hơn (nhưng vẫn là tham vọng) ở mức 5%/năm, GDP theo đầu người sẽ  lên đến 15.000 USD vào năm 2035 và đưa Việt Nam ngang hàng Brazil năm 2014, và đạt 18.000 USD vào năm 2040.

Với lộ trình tăng trưởng trên 7%/năm (chỉ tiêu tăng trưởng theo khát  vọng của Việt Nam), GDP theo đầu người sẽ đạt xấp xỉ 22.200 USD, tương đương với mức thu nhập của Hàn Quốc năm 2002 hoặc của Malaysia năm 2013. Tốc độ tăng trưởng cao hơn đó sẽ giúp Việt Nam đuổi kịp Indonesia và Philippines.

Xem lại bài 1: Nguy cơ "loay hoay" trong bẫy thu nhập trung bình

Lan Anh