Nhật Bản có rất nhiều cái để Trung Quốc học, trong đó thái độ học tập của họ là cái đặc biệt đáng học.

Thái độ học tập khiêm tốn cẩn thận của Nhật Bản không xa lạ gì đối với Trung Quốc. Từ đời Hán trở đi, sự giao lưu văn hóa Trung Quốc-Nhật Bản dần dần tăng cường; thời nhà Tùy, nhà Đường, các sứ thần Nhật Bản nối tiếp nhau vượt biển sang Trường An (kinh đô Trung Quốc thời ấy).

Trước nền văn hóa Hán xán lạn, người Nhật mở to mắt và say sưa học văn hóa Hán. Không những họ bê nguyên xi về Nhật toàn bộ các điển chương, thể chế, văn hóa tư tưởng, phong tục tập quán của Trung Quốc mà cả đến chữ Hán họ cũng cứ thế mà dùng không sai một tý nào – chữ Katakana sau này người Nhật sử dụng tuy có khác với chữ khối vuông (của Hán tự) nhưng thực ra là dùng bộ thủ của chữ khối vuông.

Có thể nói đó là thời kỳ Nhật Bản toàn bộ Hán hóa, không những văn hóa Hán là “dụng”, mà cũng là “thể”. Xã hội Nhật bắt đầu phát triển trên quỹ đạo văn hóa Hán. Bốn đảo hoang dại của nước Nhật (4 hòn đảo lớn Honshu, Hokkaido, Kyushu, Shikoku) làm nên phần lãnh thổ chính của nước Nhât, ra sức học Trung Quốc, một nước lớn văn hóa phong phú đa dạng.

{keywords}
Đất nước Nhật Bản. Ảnh: Telegraph.co.uk

Về chuyện người Nhật không ăn Tết Trung thu như người Trung Quốc thì chẳng qua là do Trung Quốc đời nhà Đường còn chưa quy định lấy ngày 15 tháng 8 trăng tròn làm ngày Tết mà thôi. Điều đó chỉ nói lên Nhật Bản nhắm mắt theo đuôi mà học, không cắt xén chút nào. Sách “Thiên công khai vật” thất truyền ở Trung Quốc sau phát hiện thấy ở Nhật là thí dụ chứng tỏ việc Nhật học Trung Quốc cho tới đời nhà Minh vẫn không bỏ sót bất kể thứ gì dù lớn dù nhỏ.

Người thạo học hỏi có một đặc điểm là biết chọn thầy.

Sau hai nghìn năm chuyên tâm học Trung Quốc, Nhật Bản phát hiện ra một ông thầy còn cao minh hơn Trung Quốc – đó là phương Tây.

Điều thần kỳ ở chỗ phương Tây vốn là kẻ thù không mời mà tự đến gõ cửa quốc môn luôn luôn đóng chặt của nước Nhật. “Dĩ địch vi sư” (coi kẻ địch làm thầy) thật là thần kỳ. Điều thần kỳ hơn nữa là trong lần “Dĩ địch vi sư” này, người Nhật học phương Tây với tinh thần hăng hái hơn nhiều so với ngày xưa học Trung Quốc.

Đô đốc Matthew C. Perry chỉ huy hạm đội Mỹ mở toang cánh cổng quốc môn Nhật Bản (năm 1854) chính là người đầu tiên mang văn minh phương Tây đến cho nước này. “Nơi Hạm trưởng Perry lên bờ” trở thành tấm bia kỷ niệm vĩnh viễn.

“Thoát Á nhập Âu” trở thành tọa độ học tập và phương hướng tiến lên của nước Nhật sau khi họ so sánh hai nền văn minh Đông và Tây. Một số người Nhật cực đoan nhất còn cổ súy dân Nhật lấy vợ lấy chồng người Âu Mỹ nhằm thay đổi huyết thống Nhật Bản.

Có thể nói đây là thời kỳ nước Nhật toàn bộ Tây hóa, không những “Tây học vi dụng”, “Tây học vi thể” mà còn làm cho Nhật trở thành một nước phương Tây theo tiêu chuẩn phương Tây. Vì thế tư tưởng, chính trị, kinh tế văn hóa Nhật được cải tạo khá triệt để.

Đảo nhỏ phương Đông vốn dĩ bế quan tỏa cảng này loáng một cái đã trở thành nước lớn phương Tây chen vai thích cánh giữa các cường quốc Âu Mỹ  –  chẳng những là đệ nhất cường quốc châu Á mà còn tranh đua với liệt cường Âu Mỹ, cố tranh lấy ngôi thứ nhất, thực hiện giấc mơ “Phương Tây có Anh Quốc, phương Đông có Nhật Bản”. Trước tiên đánh bại nước Nga trong cuộc chiến tranh Nhật-Nga [1904-1905, trận hải chiến Tsushima 1905, hạm đội Nga bị tiêu diệt], sau đó trong đại chiến II đánh thiệt hại nặng quân đội Mỹ Anh, dàn tư thế cùng nước Đức xâu xé thế giới ở hai miền Đông Tây.

Nhưng Nhật Bản sinh không gặp thời; thời đại chia cắt thế giới đã qua từ lâu. Giấc mơ cùng nước Đức phân chia thế giới bị quân đội Đồng minh đánh cho tan thành mây khói.

Người Nhật giỏi khoản học hỏi chuyến này phát huy tinh thần “Dĩ địch vi sư” lên tới cực điểm, chẳng những tổng kết sai lầm liên minh với Đức tranh bá thế giới mà còn không chút do dự trở lại truyền thống cũ liên kết với Anh Quốc, coi nước Mỹ là thầy tốt bạn hiền, bình tâm tiếp nhận sự chiếm đóng và bản hiến pháp hòa bình của quân đội Mỹ.

Việc học Mỹ đem lại kết quả kinh ngạc: nền kinh tế Nhật nhanh chóng phục hồi và phát triển nhanh. Đứng lên từ đống tro tàn sau thất bại trong đại chiến II, Nhật Bản chỉ dùng thời gian nửa thế kỷ đã vượt qua tất cả các nước lớn châu Âu về sức mạnh kinh tế, trở thành số Hai thế giới chỉ sau Mỹ.

Trong đại chiến II, quân đội Mỹ không chỉ tiêu diệt tinh hoa của quân đội Nhật mà còn ném xuống Hiroshima và Nagasaki hai quả bom nguyên tử duy nhất loài người cho tới nay từng sử dụng. Hiện giờ quân đội Mỹ vẫn đóng trên đất Nhật, tàu chiến Mỹ vẫn đậu tại các cảng Nhật, thế mà Nhật không coi quân đội Mỹ là kẻ chiếm đóng, kẻ xâm lược. Điều đó không phải là do nhu cầu chiến lược cần quan hệ tốt với Mỹ mà là do chiến lược phát triển của Nhật đi theo con đường của Mỹ.

Lão Tử nói: “Tri nhân giả trí, tự tri giả minh, thắng nhân giả hữu lực, tự thắng giả cường” Nhật Bản vừa có cái sáng suốt của sự tự biết mình [tự tri giả minh], lại có cái khôn ngoan của kẻ hiểu biết người khác (tri nhân giả trí); trước mặt nước Mỹ, nước Nhật là cậu học trò nhỏ thành kính. “Tự thắng giả cường” (kẻ tự thắng chính mình thì có sức mạnh) đã làm nên kỳ tích Nhật Bản, thực hiện trọn vẹn giấc mơ của họ.

Nhưng dù trải qua nhiều thăng trầm thì Nhật Bản vẫn cứ là Nhật Bản, vẫn mặc bộ Kimono, vẫn trải chiếu hoặc nệm ngủ trên sàn nhà , luyện thư pháp, thưởng thức và bình phẩm trà đạo, dùng chữ Katakano, thăm núi Fuji, không thoát khỏi châu Âu mà trở lại châu Á, là “quả chuối vỏ vàng ruột trắng” chỗ nào cần “trắng” thì đã “trắng”, chỗ nào cần “vàng” thì vẫn cứ “vàng” chứ không biến thành cây kem trắng từ trong ra ngoài.

Còn tiếp…

Nguyễn Hải Hoành lược dịch

•    Chuyên mục hợp tác cùng Chuyên trang Nghiên cứu Quốc tế (nghiencuuquocte.net)

•    Tiêu đề do Tuần Việt Nam đặt