Đáng chú ý, có đến 99,5% các xã vùng dân tộc thiểu số và miền núi trên cả nước đã có trạm y tế. Tỷ lệ trạm y tế xã đạt tiêu chí quốc gia về y tế năm 2020 đã đạt gần 95%.
Các trạm y tế được đầu tư hoàn chỉnh về nhà cửa, trang thiết bị, nhân lực để có thể làm đầy đủ các chức năng về dự phòng, chăm sóc sức khoẻ ban đầu; có giường để sơ, cấp cứu, đỡ đẻ thường, thực hiện một số dịch vụ cơ bản về sản, phụ khoa, nhi khoa, cung cấp các dịch vụ kế hoạch hoá gia đình, có vườn thuốc nam…
Nhờ mạng lưới y tế được bao phủ rộng khắp ở xã nên tỷ lệ đồng bào dân tộc thiểu số được tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khoẻ cơ bản ngay tại địa bàn sinh sống ngày càng tăng.
Tỷ lệ phụ nữ sinh con tại cơ sở y tế hoặc có sự hỗ trợ của nhân viên y tế đạt trung bình 90,6%. Tỷ lệ phụ nữ mang thai được thăm khám định kỳ ít nhất 4 lần trong thai kỳ đồng đạt trung bình 79,8%. Các loại bệnh, dịch như sốt rét, bướu cổ, lao, phong cơ bản được khống chế, loại trừ.
Khi đi khám chữa bệnh, đồng bào dân tộc thiểu số được bảo hiểm y tế chi trả. Tính đến tháng 6/2023, tỷ lệ đồng bào dân tộc thiểu số tham gia bảo hiểm y tế đạt trung bình 91,9%.
Tỷ lệ bao phủ bảo hiểm y tế vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi đã đạt trước 4 năm chỉ tiêu được giao tại Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng và Nghị quyết số 142/QH13 của Quốc hội Khoá XIII về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016 - 2020.
Một số tỉnh thuộc vùng dân tộc thiểu số và miền núi có tỷ lệ bao phủ bảo hiểm y tế cao như Điện Biên, Lào Cai, Sóc Trăng, Cao Bằng, Thái Nguyên, Lai Châu, Thừa Thiên Huế, Trà Vinh, Quảng Nam từ 92,7% đến 99,6%.