Lời hứa "đảm bảo an ninh" 

Tháng 1/1994, Thỏa thuận hạt nhân 3 bên gồm Nga, Mỹ và Ukraina được ký kết tại Moscow. Theo đó, Ukraina, quốc gia được thừa hưởng một phần kho vũ khí hạt nhân của Liên Xô sau khi liên bang Xô Viết tan rã và nghiễm nhiên trở thành cường quốc hạt nhân "sau 1 đêm", đồng ý từ bỏ kho vũ khí hạt nhân để đổi lấy việc Mỹ, Nga đứng ra đảm bảo an ninh, toàn vẹn lãnh thổ và sự trợ giúp về kinh tế của Mỹ và phương Tây.

{keywords}
Xe tăng tập trận ở khu vực Leningrad. Nga ngày càng điều nhiều quân tới khu vực biên giới với Ukraina. Ảnh: ZUMA Press 

Và tiếp đó là việc ký kết Bản ghi nhớ đảm bảo an ninh ký tại Budapest tháng 12/1994 gồm 6 bên là Nga, Mỹ, Anh, Ukraina, Belarus và Kazakhstan. 

Theo đó, Ukraina, Belarus, Kazakhstan sẽ từ bỏ vũ khí hạt nhân và tham gia Hiệp ước không phổ biến vũ khí hạt nhân (NPT). Để đổi lại, 3 cường quốc hạt nhân là Nga, Mỹ và Anh đứng ra "đảm bảo" an ninh và toàn vẹn lãnh thổ của các nước này. 

Nhưng ở đời, ai đâu học hết "chữ ngờ". "Tuần trăng mật" giữa Nga với Mỹ và phương Tây rồi cũng mau chóng qua đi. Chiến tranh lạnh tuy đã kết thúc và Liên Xô không còn tồn tại, nhưng tư duy Chiến tranh lạnh cùng sự nghi kỵ và ngờ vực về cạnh tranh chiến lược trong những "cái đầu nóng" ở Washington DC, Brussels và Moscow lại không mất đi.

Bản thỏa thuận lịch sử thiết lập Quan hệ đối tác vì hòa bình Nga - NATO ký kết năm 1997 mau chóng rơi vào quên lãng vì Moscow cho rằng mình là bên "bị lợi dụng", "bị thua thiệt" trong khi NATO và EU không ngừng "Đông Tiến" tới sát biên giới Nga. 

Trong khi đó, Mỹ và phương Tây nhất quyết cho rằng Đông Âu và các quốc gia trong không gian hậu Xô Viết là những quốc gia độc lập, có chủ quyền và có toàn quyền quyết định tham gia vào các tổ chức quân sự, kinh tế, chính trị nào phù hợp với lợi ích quốc gia. 

Vào lúc quan hệ Nga, Mỹ và phương Tây ngày một xấu đi như vậy, Ukraina lại trở thành tâm điểm trong cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn.

Để "dằn mặt" Ukraina, và "nói không" với khả năng gia nhập NATO và EU của Ukraina sau khi chính quyền mới thân phương Tây được hình thành ở Kiev sau "Sự kiện Maidan" 2013 - 2014, Nga đã sáp nhập Crimea, đồng thời ủng hộ các "chính quyền tự trị" thân Nga tại 2 nước cộng hòa Lugansk và Donetsk ở khu vực Donbass phía Đông Ukraina. 

Khi chính trị cường quyền lên ngôi và cái lý thuộc về kẻ mạnh, những lời lẽ đảm bảo an ninh xưa kia cho Ukraina được ghi trong Hiệp ước Moscow và Bản ghi nhớ Budapest 1994 chẳng còn mấy ý nghĩa, cũng chẳng thuyết phục được ai. Chỉ có người Ukraina giờ đây mới thấm hiểu hơn ai hết rằng chẳng ai có thể đảm bảo an ninh tốt hơn bằng chính nội lực và khả năng của mình.  

Căng thẳng Nga - Ukraina 

Nói một cách chính xác, quan hệ Nga - Ukraina, quan hệ giữa Nga với Mỹ và phương Tây không còn trở lại bình thường nữa kể từ khi Crimea "trở về Nga" năm 2014, và xung đột, bạo lực liên miên diễn ra sau đó tại khu vực Donbass, cướp đi sinh mạng của hàng chục ngàn người.

Kiev không ngừng củng cố nội lực cả về kinh tế và quân sự, để chờ đến ngày "nhổ cái gai" Donbass, lấy lại Crimea và gia nhập EU, NATO. 

{keywords}
Quân đội Ukraina cùng tên lửa chống tăng Javelin. Ảnh: Reuters

Còn Moscow thì luôn coi sự hiện diện quân sự mạnh xung quanh Ukraina là để "bảo vệ" Crimea, hỗ trợ những "người anh em" gốc Nga, nói tiếng Nga tại Donbass. Moscow tin rằng khi áp lực quân sự này đủ lớn để NATO thấy được hết lợi bất cập hại, không muốn đưa bất ổn vào trong mái nhà NATO và viễn cảnh đối đầu quân sự trực tiếp với Nga thì Ukraina sẽ không bao giờ trở thành thành viên của NATO. 

Khi quan hệ không có lòng tin và đầy nghi kỵ chiến lược, từng bước đi của mỗi bên đều sẽ dễ dàng được diễn giải thành những âm mưu chiến lược sâu xa, đáng ngờ của phía bên kia.

Điều này làm người ta nhớ lại vụ ám sát Thái tử kế vị của đế quốc Áo - Hung là Franz Ferdinand tại Sarajevo ngày 28/6/1914 và một chuỗi các hành động sai lầm diễn ra sau đó trong bối cảnh "súng đã lên nòng" khiến châu Âu và thế giới rơi vào binh đao, cảnh máu lửa của Chiến tranh thế giới thứ nhất mà không có cách gì cản nổi. 

Nhìn vào bức tranh Ukraina hiện nay và phản ứng của các bên liên quan, ta có thông tin có phần trái ngược. Tổng thống Ukraina Volodymyr Zelensky tỏ ra hết sức bình tĩnh khi cho rằng những áp lực quân sự từ Nga mà Ukraina đang trải qua chẳng có gì mới, nguy cơ chiến tranh tổng lực là không cao và phản ứng của Mỹ, phương Tây là có phần thái quá khi yêu cầu các công dân và nhà ngoại giao của mình rút ngay lập tức khỏi Ukraina. 

Còn Tổng thống Putin và các lãnh đạo khác của Nga thì vẫn bình thản, "không quan tâm" đến lo ngại của Mỹ, phương Tây và cho rằng không có lý do gì để phát động chiến tranh vào lúc này.

Trong khi đó, truyền thông của Mỹ và phương Tây cùng các nhà lãnh đạo của họ lại liên tục đưa tin tức cập nhật về tình trạng chiến tranh, cũng như "thái độ hung hăng" của nước Nga. CNN, New York Times còn đưa tin chi tiết về việc Nga triển khai 130.000 quân quanh biên giới trên bộ và trên biển giáp Ukraina để chuẩn bị cho cuộc tấn công từ 4 phía. 

Lãnh đạo Bộ Ngoại giao, Bộ Quốc phòng và Hội đồng an ninh quốc gia Mỹ thậm chí còn "ấn định" khung thời gian Nga sẽ tấn công Ukraina từ 16-19/2. Vậy ý đồ và toan tính thực của các bên là gì? 

*Kỳ tới: Ukraina - Nguy cơ chiến tranh và cách thức tháo ngòi nổ 

TS Hoàng Anh Tuấn 

>> Tình hình căng thẳng tại Ukraina

Những 'lá bài' trong tay Putin

Những 'lá bài' trong tay Putin

Tổng thống Putin mặc dù đang phải đối mặt với các loại trừng phạt và phản đối của quốc tế vẫn luôn là một bên có sức mạnh áp đảo hơn trong đàm phán với Ukraina.