XEM VIDEO:

Trong phần cuối Bàn tròn trực tuyến “Khát vọng Việt Nam”, TS Nguyễn Văn Đáng - Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh và GS Lê Anh Vinh - Phó viện trưởng phụ trách Viện Khoa học giáo dục Việt Nam phân tích vai trò của khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo trong phát triển đất nước.

Xây dựng nền kinh tế số là xu hướng thời đại

Nhà báo Diệu Thúy: Nếu như trong các văn kiện Đại hội 11, 12, khái niệm “kinh tế số” chưa được nhắc đến thì ở các dự thảo văn kiện trình Đại hội 13, “kinh tế số”, “phát triển kinh tế số” được nhắc lại rất nhiều lần. Việc phát triển kinh tế số được xác định là một trong những nhiệm vụ trọng tâm, cũng là đột phá chiến lược trong nhiệm kỳ Đại hội 13. GS Vinh nhìn nhận như thế nào?

GS Lê Anh Vinh: Tôi nghĩ đây là định hướng đúng đắn. Chúng ta đều thấy hiện nay mọi thứ phát triển như vũ bão. Nếu không bắt kịp, chúng ta sẽ bị lỡ nhịp trong sự phát triển của thế giới. 

Việt Nam có tiềm lực. Chúng ta có nguồn nhân lực tốt, đặc biệt về mảng khoa học công nghệ. Chúng ta hoàn toàn có thể đáp ứng được sự phát triển trong giai đoạn tới nếu đặt trọng tâm, mục tiêu hướng đến sự phát triển kinh tế số.

Hiện nay các quốc gia đều có chính sách để tận dụng xu thế của Cách mạng 4.0. Theo TS Đáng, Việt Nam đã có, và cần có những nền tảng như thế nào để tận dụng cơ hội từ cuộc cách mạng này?

TS Nguyễn Văn Đáng: Xây dựng nền kinh tế số là một trong những giải pháp để tạo ra sự đột phá cho nền kinh tế Việt Nam. Đấy là một xu hướng của thời đại. 

Chủ trương, đường lối của Đảng đưa ra rất rõ và sớm. Từ năm 2014, Bộ Chính trị đã ra nghị quyết về đẩy mạnh phát triển công nghệ thông tin. Năm 2016, Chính phủ có một nghị quyết về ưu đãi thuế thúc đẩy phát triển và ứng dụng công nghệ thông tin. Năm 2017, 2018, chúng ta thành lập Ủy ban quốc gia về chính phủ điện tử.

Năm 2019, Bộ Chính trị ra chủ trương chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, rồi nghị quyết 52 đặt mục tiêu đến năm 2025, nền kinh tế số sẽ đạt 20% GDP…

Tức là về mặt nhận thức và chủ trương, chúng ta đã rất chủ động. Thực tế, một số tổ chức nghiên cứu ở quốc tế đã đánh giá tốt những điều kiện, tiềm năng cho tương lai của nền kinh tế số ở Việt Nam.

Thứ 2 như GS Vinh nói, đội ngũ nhân lực của chúng ta về mặt công nghệ, kỹ thuật khá tốt và thực tế là nền kinh tế đã có những chuyển động rất rõ. Vấn đề là làm sao chúng ta đẩy mạnh được hơn nữa chuyển động theo hướng kinh tế số trong thời gian tới để tận dụng những thế mạnh của Việt Nam, và đặc biệt là theo đúng theo xu hướng, quy luật phát triển của xã hội hiện đại.

Khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo là đột phá

Theo GS Vinh, khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo sẽ có vai trò như thế nào trong việc hiện thực hóa mục tiêu đất nước phát triển phồn vinh, hạnh phúc?

Tôi nghĩ khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo sẽ đóng vai trò quyết định. Chúng ta có sự chuẩn bị, rất chủ động trong việc đáp ứng về đổi mới khoa học công nghệ trong thời gian qua. Rất nhiều chính sách đã được đưa ra để thúc đẩy.

{keywords}
GS Vinh: Với sự chủ động chuẩn bị, trong 5-10 năm tới, chúng ta sẽ có nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước. Ảnh: Phạm Hải

Đối với giáo dục, trong 3 năm vừa qua, việc đổi mới sáng tạo trong trường đại học, thúc đẩy sinh viên khởi nghiệp đạt được những kết quả rất đáng khích lệ. Số lượng doanh nghiệp khởi nguồn từ các trường đại học tăng gấp đôi trong 2 năm qua. Các dự án của sinh viên đạt được nhiều thành công qua những ngày hội khởi nghiệp ở cấp độ quốc gia.

Nhiều trường đã đưa nội dung về đổi mới sáng tạo về khởi nghiệp vào chương trình học để hỗ trợ sinh viên có sự chuẩn bị tâm thế sau khi ra trường. Đây là định hướng rất tốt.

GS nhìn nhận như thế nào về đội ngũ nhân lực công nghệ trình độ cao hiện nay của Việt Nam?

Sinh viên Việt Nam có năng lực tốt về toán và các môn khoa học. Khi được đào tạo ở các trường về khoa học kỹ thuật, họ đã đáp ứng được khá tốt nhu cầu của nhà tuyển dụng. Nếu 5 năm trước, chúng ta không có trường nào nằm trong top xếp hạng các trường đại học thế giới, thì gần đây chúng ta đã có 4 trường nằm trong top 1.000 và 11 trường ở trong hệ thống xếp hạng của châu Á.

Tôi cũng thấy có sự chuyển biến trong chuẩn bị từ xa, cụ thể là bậc giáo dục phổ thông. Chương trình giáo dục phổ thông mới triển khai từ năm 2020 đã lần đầu tiên đưa môn công nghệ và tin học vào giảng dạy từ lớp 3. Khi các con lên trung học, việc học tập sẽ được cá nhân hóa, có định hướng nghề nghiệp rõ ràng.

Với sự chủ động chuẩn bị đó, trong 5-10 năm tới, chúng ta sẽ có nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước, đặc biệt khi xác định khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo là đột phá cho phát triển kinh tế.

Vậy còn thách thức trong xây dựng nguồn nhân lực trình độ cao theo TS Đáng là gì?

Tôi đồng ý với GS Vinh là xét riêng trong lĩnh vực chất lượng nhân sự, nguồn nhân lực khoa học công nghệ, chúng ta nỗ lực đổi mới sáng tạo rất rõ. Tuy nhiên, để lực lượng này có thể phát huy được thì khái niệm đổi mới sáng tạo phải gắn với cả khu vực công.

Tức là lãnh đạo quản lý, sử dụng những con người đấy như thế nào để họ có thể phát huy được sáng tạo. Đổi mới sáng tạo trong khu vực công là một tiến trình phức tạp và khó khăn hơn rất nhiều so với bên khoa học công nghệ.

Thách thức đầu tiên dễ nhìn thấy, đó là chúng ta phải có hệ thống hành chính, quản lý nhà nước linh hoạt và thích ứng được với bối cảnh hiện nay để có thể tận dụng mọi nguồn lực trong xã hội.

Làm sao đổi mới sáng tạo để chính quyền, nhà nước có thể cùng với các doanh nghiệp, người dân rồi các tổ chức xã hội chung tay hiện thực hóa khát vọng về sự thịnh vượng của Việt Nam.

Thể chế hóa chính sách, giảm thiểu cảm tính của con người

Từ trải nghiệm học hỏi thực tế ở các nước phát triển, hai ông chia sẻ như thế nào về giải pháp thúc đẩy, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao?

GS Lê Anh Vinh: Tôi nghĩ là để thúc đẩy và thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao, có 3 mô hình. 

Thứ nhất, phát triển nguồn lực tại chỗ như một số nước châu Âu. Họ đầu tư mạnh vào giáo dục, cơ sở hạ tầng, điều kiện phát triển kinh tế xã hội, làm sao phát triển được tốt nhất đội ngũ nhân tài tại bản địa.

Một mô hình khác là Mỹ. Họ có những điều kiện làm việc tốt, cơ hội phát triển tốt và thu hút được những tài năng xuất sắc ở các nơi trên thế giới. 

Một mô hình chúng ta cũng có thể quan tâm, cần học hỏi là Singapore, phát triển nhân tài qua việc đào tạo, bồi dưỡng gọi là "học tập suốt đời".

Quan sát của tôi đối với rất nhiều bạn trẻ khi về Việt Nam công tác là cảm giác các bạn ấy thiếu môi trường để tiếp tục phát triển, kiểu như "Tôi cần tiếp tục được học hỏi, phát triển tiếp, vượt qua những gì tôi đã được học hỏi, tiếp thu được".

Vì thế, tôi nghĩ, chúng ta cần xác định một cách hài hòa giữa 3 mô hình trên.

{keywords}
 TS Nguyễn Văn Đáng: Để những người có năng lực nổi trội có chỗ đứng bền vững trong hệ thống quản trị công của quốc gia, tôi đề cao yếu tố thể chế

TS Nguyễn Văn Đáng: Tôi cũng đồng ý với GS Vinh ở chỗ, môi trường là cực kỳ quan trọng.

Tham khảo mô hình của các nước và vùng lãnh thổ, chẳng hạn như Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan, tôi thấy điều giúp họ thu hút và phát huy được sự cống hiến của những người có năng lực nổi trội chính là trao cơ hội và tạo ra một môi trường làm việc thuận lợi cho những người có năng lực đó, để họ cảm giác là họ được trọng dụng, được ghi nhận, tôn vinh và được bảo đảm những lợi ích nếu như thực sự họ đem đến sự thay đổi cho xã hội.

Từ góc độ nghiên cứu về quản trị công, để những người có năng lực nổi trội có chỗ đứng bền vững trong hệ thống quản trị công của quốc gia nói chung, tôi đề cao yếu tố thể chế. Tức là chúng ta thể chế hóa chủ trương, chính sách thành các quy tắc, nguyên tắc, quy trình tuyển dụng, phát hiện, tuyển dụng, bổ nhiệm rồi là đề bạt, thăng tiến...

Khi đó, người tài, người có năng lực sẽ nhìn thấy được cơ hội của họ và họ biết làm thế nào để có thể đóng góp cho xã hội. Khi đó, không chỉ thế hệ này mà cả thế hệ sau, chúng ta có được một quy trình thể chế ổn định, vận hành khách quan và giảm thiểu sự can thiệp của yếu tố chủ quan, cảm tính của con người. 

Tuần Việt Nam

Tạo lòng tin để người tài xuất lộ

Phần 2: Tạo lòng tin để người tài xuất lộ

Thu nhập là cần thiết nhưng không phải là điều kiện tiên quyết. Chúng ta phải cho người có năng lực cơ hội được làm việc đúng với khả năng, để họ có cảm giác đang đóng góp cho cộng đồng.